Bản án 67/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 67/2018/HS-ST NGÀY 19/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2018/HSST ngày 03 tháng 8 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Tr - Sinh ngày 14 tháng 01 năm 1996 tại xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội 4, xóm A1, xã C, huyện B, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Tuyên và bà Nguyễn Thị Thảo; có vợ là Mai Ngọc Hồng; chưa có con; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2018 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định; “có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 05 phút ngày 16/5/2018, Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực Xóm 13, xã Giao Yến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định phát hiện Nguyễn Văn Tr có biểu hiện nghi vấn (cất giấu trái phép chất ma túy). Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra và thu giữ trong túi quần bên phải đang mặc của Tr 01 đoạn ống nhựa bịt kín hai đầu bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng. Tr khai đó là ma túy mua về để sử dụng cho bản thân (niêm phong ký hiệu M).

Tại bản kết luận giám định số 429/GĐKTHS ngày 17/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: “Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong ký hiệu M, gửi giám định là ma túy. Loại ma tuý: Mathamphetamine. Khối lượng mẫu M: 0,323 gam”.

Bản Cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 01/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt Nguyễn Văn Tr từ 15 đến 18 tháng tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung. Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy. 

Bị cáo không tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc kết tội bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết hợp với kết luận giám định về số ma túy thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 16/5/2018, tại khu vực Xóm 13, xã Giao Yến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, Nguyễn Văn Tr có hành vi cất giấu 0,323 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Tr đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Tính nguy hiểm của hành vi còn thể hiện ở chỗ: Tệ nạn ma tuý đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội, nó không chỉ huỷ hoại sức khoẻ của người nghiện mà còn khiến nhiều gia đình rơi vào cảnh khánh kiệt, bần cùng; là nguyên nhân dẫn đến phạm tội và gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người nghiện ma túy, đã thấu hiểu về tác hại, về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội về ma túy, song vẫn phạm tội nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn ở mức thấp theo đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, có như vậy mới có tác dụng cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội đồng thời mới có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, như quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng của vụ án: Số ma túy là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải nộp án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 của Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt Nguyễn Văn Tr 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.(Được ghi chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/8/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Về án phí án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về