Bản án 66/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 66/2019/HS-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 07 giờ 30 phút ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Tùng L; tên gọi khác: Không; sinh năm 1994; tại thị xã M, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Khối T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; con ông: Bùi Minh G, sinh năm 1968 và con bà: Lê Thị A, sinh năm 1971; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/5/2019 đến ngày 15/5/2019 và được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/5/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Quàng Văn T; sinh năm 1993; trú tại: Đội, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Anh Cà Văn T; sinh năm 1985; trú tại: Bản Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 00 phút ngày 08/5/2019, Bùi Tùng L từ nhà điều khiển xe mô tô màu trắng đen hiệu Honda Wave RS có BKS 27B1-774.65 mượn của anh Quàng Văn T; sinh năm 1993; trú tại đội, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên đến bản Đ, thị trấn T, huyện T để tìm mua ma túy. Bị cáo L đi vào nhà Cà Văn T; sinh năm 1985; trú tại bản Đ, thị trấn T, huyện T, khi gặp T đang chát xi măng tường dưới bếp, bị 1 cáo đã hỏi T có ma túy thì bán cho L 01 viên hồng (Ma túy tổng hợp) và 100.000đ hàng trắng (Tức Heroine). T đã bảo bị cáo vào nhà ngồi đợi ở bàn uống nước. Khoảng 15 phút sau, T lên nhà bảo bị cáo đưa tiền. Bị cáo lấy ra 01 tờ tiền polime mệnh giá 500.000đ đưa cho T; T nhận tiền đi ra ngoài sân. Khoảng 05 phút sau, T đứng ngoài sân đưa qua cửa sổ cho L một gói nilon màu đen bên trong chưa 01 viên nén màu hồng, 01 gói Heroine và số tiền 350.000đ tiền thừa cho bị cáo; L nhận lấy ma túy và tiền thừa đi về nhà. Trên đường đi đến đoạn đường trước cổng Trung tâm y tế huyện Tuần Giáo thuộc khối Trường Xuân, thị trấn Tuần Giáo, huyện Tuần Giáo thì bị tổ công tác Công an thị trấn Tuần Giáo phát hiện, bắt quả tang thu giữ trên người Lâm 01 viên nghi ma túy tổng hợp và 01 gói nghi Heroine; tạm giữ 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung. Bị cáo Bùi Tùng L và vật chứng đã được đưa về Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Sau khi đưa vật chứng về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở niêm phong có sự chứng kiến của bị cáo: Đối với 01 gói chất bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của bị cáo được xác định khối lượng 0,1gam và trích 0,03 gam làm mẫu vật gửi giám định. Đối với 01 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp thu giữ của bị cáo được xác định khối lượng 0,09gam và trích 0,03 gam làm mẫu vật gửi giám định. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 100 ngày 13/5/2019. Tại bản Kết luận giám định số: 506/GĐ-PC09 ngày 21/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Bùi Tùng Lâm gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine; mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Bùi Tùng L gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số: 72/CT-VKS-TG ngày 17 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Bùi Tùng L về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa vị Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Lâm từ 12 tháng đến 15 tháng tù; không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tuyên hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,07 gam Heroine và 0,06 gam Methamphetamine, 01 mảnh nilon màu đen 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng; trả lại 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đã qua sử dụng không kiểm tra chi tiết máy bên trong. Trả lại 01 chiêc xe máy nhãn hiệu Honda số loại Wave RS dung tích xi lanh 97 màu sơn trắng đen BKS 27B1-77465 số khung RLHHC09046Y398725, số máy HC09E6398800 xe đã qua sử dụng cho anh Quàng Văn T. Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận: Khoảng 20 giờ 00 ngày 08/5/2019, bị cáo Bùi Tùng L một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS màu sơn trắng đen bạc có BKS 27B1-774.65 đi đến nhà Cà Văn T ở bản Đ, thị trấn T, huyện T; hi mua ma túy để sử dụng. Bị cáo đã mua được của Tâm 01 viên ma túy Methamphetamine và 01 gói Heroine hết 150.000đ. Khi mua không cân xác định khối lượng và cũng không có ai tham gia cùng. Khi bị phát hiện bắt quả tang, Cơ quan điều tra thu giữ vật chứng, khi mở niêm phong xác định khối lượng thì bị cáo đều được chứng kiến và thừa nhận khối lượng Heroine thu giữ là 0,1 gam và 0,09 gam Methamphetamine; được xác định là hoàn toàn chính xác. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung cáo trạng và tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Bùi Tùng Lâm đã phạm tội Tàng trữ trái phép 02 chất ma túy được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo: Khối lượng Heroine bị thu giữ của là 0,1 gam; khối lượng Methamphetamine bị thu giữ là 0,09 gam; tổng khối lượng các chất ma túy thu giữ là 0,19 gam; nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam; số ma túy đã bị thu giữ bị cáo thừa nhận tàng trữ nhằm mục đích sử dụng ngoài ra không có mục đích nào khác; bởi vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Còn nhỏ ở với bố mẹ, được bố mẹ nuôi dưỡng; học hết lớp 10/12 thì bỏ học. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2011. Đến ngày 14/5/2019 bị Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo khởi tố về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS. Bị cáo tuổi đời còn trẻ lẽ ra bị cáo phải biết rèn luyện đạo đức và ý chí, chịu thương chịu khó tu chí làm ăn. Nhưng vì không vượt qua khỏi những cám dỗ và rủ rê của bạn bè; vì muốn thể hiện bản thân nên bị cáo đã mắc phải tệ nạn nghiện ma túy. Cũng chính từ nghiện ma túy để thỏa mãn cơn nghiện ma túy nên bị cáo đã bất chấp quy định của Pháp luật để mua ma túy với mục đích sử dụng. Bởi vậy, Hội đồng xét xử cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội và cũng là cơ hội để giúp bị cáo cai nghiện ma túy.

[5] Theo khoản 5 Điều 249 BLHS quy định; bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo Bùi Tùng L từ 12 tháng đến 15 tháng tù; Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp với tính chất mức độ hành vi của bị cáo nên cần chấp nhận.

[7] Về nguồn gốc số Heroine và Methamphetamine bị thu giữ, bị cáo khai do bị cáo mua của Cà Văn T, trú tại bản Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên; quá trình điều tra chỉ có duy nhất lời khai của bị cáo L, còn đối tượng tên Cà Văn T không thừa nhận việc đã bán ma túy cho bị cáo nhiều lần. Do đó ngoài lời khai của bị cáo thì không có cơ sở nào khác chứng minh T đã bán ma túy cho bị cáo nên không có cơ sở để xử lý đối với T. Bởi vậy HĐXX không xem xét.

[8] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để xử lý vật chứng như sau: Cần tịch thu để tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,07 gam Heroine và 0,06 gam Methamphetamine, 01 mảnh nilon màu đen, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng; trả lại cho bị cáo Lâm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đã qua sử dụng không kiểm tra chi tiết máy bên trong. Trả lại 01 chiêc xe máy nhãn hiệu Honda số loại Wave RS dung tích xi lanh 97 màu sơn trắng đen BKS 27B1-77465 số khung RLHHC09046Y398725, số máy HC09E6398800 xe đã qua sử dụng cho anh Quàng Văn T do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Bị cáo không có ý kiến khiếu nại các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Tùng L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Tùng L 15 (Mười lăm) tháng tù; được trừ được trừ 06 (Sáu) ngày tạm giữ, thời gian bị cáo phải chấp hành hình phạt còn lại là 14 (Mười bốn) tháng 24 (Hai mươi bốn) ngày.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

3. Vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,07 gam Heroine và 0,06 gam Methamphetamine, 01 mảnh nilon màu đen, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng; trả lại cho bị cáo L 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đã qua sử dụng không kiểm tra chi tiết máy bên trong. Trả lại 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda số loại Wave RS dung tích xi lanh 97 màu sơn trắng đen BKS 27B1-77465 số khung RLHHC09046Y398725, số máy HC09E6398800 xe đã qua sử dụng cho anh Quàng Văn T. Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo Phiếu nhập kho số: PNKVC88 ngày 22/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Án phí: Bị cáo Bùi Tùng L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Bùi Tùng L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 22/8/2019). Anh Quàng Văn T được quyền kháng cáo đến quyền lợi liên quan đến anh T trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về