Bản án 66/2019/HSST ngày 04/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 66/2019/HSST NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2019//TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Hữu T, sinh ngày 07-10-1971, tại: Xã H, huyện H, tỉnh TNơi cư trú: Thôn Q, xã H, huyện H, tỉnh T; trình độ văn hóa: 07/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu D và bà Nguyễn Thị Kh; có vợ là Nguyễn Thị Y và 04 con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án: Không; tiền sự: Năm 2017 bị đưa đi cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 10/QĐ-TA ngày 17-4-2017 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, Đến ngày 06-11-2018, bị cáo đã chấp hành xong; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21-6-2019 đến ngày 24-6-2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Anh Phạm Thanh M, sinh năm 1979

Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.

2. Anh Vũ Văn B, sinh năm 1984

Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 08 giờ 30 phút ngày 21-6-2019, tại đoạn đường 453 thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện H, tỉnh T; Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình bắt quả tang bị cáo Trần Hữu T có hành vi cất giấu trong lòng bàn tay phải 01 gói giấy loại giấy học sinh có chữ viết và có dòng kẻ bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Bị cáoT khai nhận đó là ma túy (Hêrôin), mua của một người đàn ông khoảng khoảng 30 tuổi (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực cổng Bưu điện thị trấn H, huyện H, tỉnh T với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành niêm phong gói chất bột màu trắng nói trên trước sự chứng kiến của anh Vũ Văn B và anh Phạm Thanh M. Ngoài ra, Công an huyện Hưng Hà thu giữ, quản lý của bị cáo T số tiền 10.000 đồng. Khám xét chỗ ở của bị cáo T không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại Bản kết luận giám định số 277/KLGĐ-PC09 ngày 22-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình , kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,2233 gam (Không phẩy hai nghìn hai trăm ba mươi ba gam). Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 67/CT-VKSHH ngày 04-9-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Trần Hữu T ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Hữu T khai nhận: khoảng 08 giờ ngày 21-6-2019, khi bị cáo đang ở nhà tại thôn Q, xã H thì có anh Q quê ở xã T, huyện H, tỉnh T là bạn mới quen của bị cáo và là người nghiện ma túy đi xe máy đến rủ bị cáo đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng, bị cáo đồng ý. Sau đó, anh Q điều khiển xe máy chở bị cáo ngồi sau đi lên khu vực thị trấn H, huyện H, tỉnh T để mua ma túy, trên đường đi, anh Q đưa cho bị cáo số tiền 200.000 đồng. Đến cổng Bưu điện thị trấn H, huyện H, tỉnh T anh Q dừng xe đứng đợi, bị cáo đi bộ khoảng 100m thì gặp và mua của 01 người đàn ông khoảng 30 tuổi, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng, bị cáo cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải và cùng anh Q về khu vực xã T để tìm nơi sử dụng ma túy, khi đi đến đoạn đường 453 thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện H, tỉnh T thì bị lực lượng Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình kiểm tra, do hoảng sợ bị cáo nhảy xuống xe còn anh Q điều khiển xe máy bỏ chạy. Bị cáo bị Công an huyện Hưng Hà thu giữ và quản lý 01 gói ma túy và số tiền 10.000đồng. Quá trình anh Q đưa tiền cho bị cáo và khi bị cáo mua ma túy không có ai chứng kiến. Bị cáo nhận thấy hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo là vi phạm pháp luật.

Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Trần Hữu T như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Hữu T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 21-6-2019; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Trần Hữu T là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong phong bì số 277/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; trả lại cho bị cáo Trần Hữu T số tiền 10.000đồng. Bị cáo phải chịu số tiền 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm .

Bị cáo T không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo Trần Hữu T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 09giờ 00 phút ngày 21-6-2019; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi lập hồi 11 giờ 05 phút ngày 21-6-2019 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh T; bản kết luận giám định số: 277/KLGĐ-PC09 ngày 22-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của những người làm chứng: Anh Vũ Văn B và anh Phạm Thanh M. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 08 giờ 30 phút ngày 21-6-2019, tại đoạn đường 453 thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện H, tỉnh T, bị cáoTrần Hữu T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2233 gam ma túy, loại Heroine (Hêrôin), mục đích để sử dụng, bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Trần Hữu T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Trần Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

......................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, hủy hoại trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến giống nòi và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự; trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bố, mẹ đẻ của bị cáo đều là người có công với cách mạng, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có một tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bản thân bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức rất rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng...trái phép chất ma túy nhưng do nghiện ma túy nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội nghiêm trọng do cố ý, do đó cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[5] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà quản lý của bị cáo Trần Hữu T sau khi giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 277/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà quản lý của bị cáo T số tiền 10.000đồng. Quá trình điều tra xác định số tiền 10.000đồng là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của bị cáo Trần Hữu T vào ngày 21-6-2019: Bị cáoT khai mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể với giá 200.000 đồng tại khu vực gần bưu điện thị trấn H, huyện H, tỉnh T, việc mua bán không có ai biết, ngoài lời khai của bị cáo, không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình không điều tra, xử lý đối với người đã bán ma túy cho bị cáo T trong vụ án này.

[8] Về số tiền dùng để mua ma túy , bị cáo T khai là của người đàn ông tên Q ở xã T, huyện H, tỉnh T đưa cho, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành xác minh kết quả: Xác định tại thôn T, xã T, huyện H, tỉnh T có anh Trần Đình Q, sinh năm 1975 nhưng ngày 21-6-2019, anh Q bị ốm ở nhà cùng vợ là chị Nguyễn Thanh H, không đi đâu và không gặp ai, anh Q không quen biết người nào tên T ở Hồng An. Ngoài lời khai của bị cáo T, không có tài liệu chứng cứ nào khác nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình không có căn cứ để điều tra, xử lý đối với anh Q trong vụ án này.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Hữu T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hữu T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 21-6-2019.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

3.1. Tịch thu tiêu huỷ 0,1965 gam (Không phẩy một nghìn chín trăm sáu mươi lăm gam) mẫu gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Trần Hữu T trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 277/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

3.2. Trả lại cho bị cáo Trần Hữu T số tiền 10.000đồng (Mười nghìn đồng).

(Toàn bộ vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06-9-2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Hữu T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Hữu T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HSST ngày 04/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về