Bản án 66/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 66/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 315/2019/TLST-HNGĐ ngày 01/8/2019 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 211/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 23/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 137/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11/11/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Võ Quốc C, sinh năm 1986 HKTT: Số 301/7 ấp P, xã PN, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Bị đơn: Chị P sinh năm 1987 HKTT: Số 301/7 ấp P, xã PN, huyện K, tỉnh Sóc Trăng. Chỗ ở: ấp P, xã PN, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 26/7/2019, nguyên đơn anh Võ Quốc C trình bày: Anh và chị P tự nguyện tổ chức lễ cưới vào năm 2011, anh chị có đăng ký kết hôn vào ngày 02/6/2011 tại Ủy ban nhân dân xã PN, huyện K và được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Quá trình sống chung anh chị có một người con chung là cháu Võ Quốc T, sinh ngày 02/11/2011, đang sống với anh. Sau thời gian chung sống hạnh phúc, anh chị phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, chị P thường về nhà cha mẹ ruột, anh chị thường xuyên cải nhau. Vì vậy, đã hơn 01 năm nay anh chị không còn chung sống với nhau nữa; anh chị không tạo lập được tài sản chung và không có nợ chung.

Nay chị nhận thấy vợ chồng sống chung không hạnh phúc nên anh yêu cầu được ly hôn với chị P; anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con; anh không yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề về tài sản chung và nợ chung.

- Bị đơn chị P đã được thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng chị không có có văn bản trình ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không tham gia hòa giải.

- Vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của pháp luật, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự và quan hệ pháp luật đang tranh chấp là chính xác, tại phiên tòa Hội đồng xét xử đúng thành phần. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho anh C được ly hôn với chị P, giao con chung cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, chị P không phải cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung không đặt ra xem xét, giải quyết là có căn cứ nên được chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

[2] Chị P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Tại phiên tòa, anh C và đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt chị P. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt chị P.

[3] Theo các tài liệu có trong hồ sơ và lời trình bày của anh Võ Quốc C, anh với chị P tự nguyện tổ chức lễ cưới vào năm 2011, ngày 02/6/2011 anh chị đi đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã PN, huyện K, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 24/2011 nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận. Anh C cho rằng sau một thời gian vợ chồng sống hạnh phúc thì anh chị phát sinh mâu thuẫn do không cùng quan điểm, chị P thường về nhà cha mẹ ruột nên anh chị hay cải nhau, anh chị đã không sống chung với nhau đã hơn 01 năm. Nay anh C yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với chị P. Chị P đã được thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng chị không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không tham gia hòa giải, điều này cho thấy hôn nhân giữa anh C với chị P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì anh chị đã không chung sống với nhau từ hơn 01 năm nay, anh chị không có biện pháp hàn gắn tình cảm, nay anh C cương quyết yêu cầu ly hôn với chị P. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh C, cho anh, chị được ly hôn để mỗi người tạo lập cuộc sống mới.

[4] Về con chung: Anh C và chị P có một con chung là cháu Võ Quốc T, sinh ngày 02/11/2011, đang sống với anh C. Anh C yêu cầu được nuôi dưỡng cháu T đến tuổi trưởng thành; chị P hiện nay thường xuyên vắng mặt tại địa phương; cháu T có nguyện vọng được tiếp tục ở với cha. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu T cho anh C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị P không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do anh C không yêu cầu.

[6] Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho chị P, không ai được quyền ngăn cản.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Anh C không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Anh C phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[9] Như đã nhận định nêu trên, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có là căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Võ Quốc C.

1/. Về quan hệ hôn nhân: Anh Võ Quốc C được ly hôn với chị P.

2/. Về con chung: Giao cháu Võ Quốc T, sinh ngày 02/11/2011 cho anh Võ Quốc C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

3/. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị P không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

4/. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho chị P, không ai được quyền ngăn cản.

5/. Về tài sản chung và nợ chung: Anh Võ Quốc C không yêu cầu giải quyết.

6/. Về án phí: Anh Võ Quốc C phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai số 0008738 ngày 01/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng. Anh C đã nộp xong án phí sơ thẩm.

7/. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

8/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:66/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về