Bản án 653/2020/HSST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 653/2020/HSST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 638/2020/HSST ngày 04 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 633/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo: Lê Hoàng S, sinh ngày 03 tháng 4 năm 2002, tại Đồng Nai (có mặt); Nơi cư trú: huyện L, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Thành Th, sinh năm 1976 và bà Trần Thị Cẩm H, sinh năm 1980; chưa có vợ, con; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con lớn trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang và tạm giữ ngày 18/7/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Hoàng S là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 20 giờ ngày 18/7/2020, S đi bộ đến khu phòng trọ không số thuộc tổ 4, khu phố Long Khánh 1, phường Tam Phước, thành phố B, tỉnh Đồng Nai gặp Nhân (không rõ nhân thân, lai lịch) và để đòi số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) mà Nhân nợ trước đó. Khi gặp Nhân không đưa tiền cho S mà đưa cho S 01 (một) gói ma túy, mục đích để trừ nợ rồi bỏ đi. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi S nhận gói ma túy đem cất giấu trong bàn tay trái chuẩn bị ra về để sử dụng thì bị Công an phường Tam Phước tuần tra, kiểm soát phát hiện bắt giữ S cùng tang vật, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

* Vật chứng, tài sản thu giữ của Lê Hoàng S, gồm:

- 01 (một) gói nylon hàn kín, chứa tinh thể màu trắng, thu giữ trong bàn tay trái của S, được niêm phong có chữ ký của S và hình dấu mộc tròn của Công an phường Tam Phước.

Tại Kết luận giám định số: 1473/KLGĐ-PC09 ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,3500 gam, loại: Methamphetamine”

Tại bản cáo trạng số: 642/CT-VKSBH ngày 30/10/2020 Viện kiểm sát nhân thành phố B, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Lê Hoàng S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: Số lượng ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Hoàng S từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật. Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ khác có tại hồ sơ và cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai mô tả. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ ngày 30 phút ngày 18/7/2020, tại khu phòng trọ không số thuộc tổ 4, khu phố Long Khánh 1, phường Tam Phước, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Lê Hoàng S có hành vi tàng trữ trái phép 01 (một) gói ma túy thì bị Công an phường Tam Phước, thành phố B phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số: 1473/KLGĐ-PC09 ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,3500 gam, loại: Methamphetamine”

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo biết rõ việc tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy pháp luật nghiêm cấm, nhưng để có ma túy sử dụng, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật. Nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số: 1473 ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai).

[6] Đối với đối tượng tên Nhân (chưa rõ lai lịch) đã bán ma túy cho bị cáo Lê Hoàng S, qua xác minh, làm rõ tại khu nhà trọ mà bị cáo S gặp Nhân vẫn chưa xác định được nhân thân, lai lịch của Nhân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Hoàng S 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/7/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số: 1473 ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 653/2020/HSST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:653/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về