TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 65/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN
Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 156/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 239/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/9/2020 giữa các đương sự:
1- Nguyên đơn: chị Vi Thị H, sinh năm 1990 (có mặt) Nơi cư trú: xóm Q, thôn C, xã T, huyện Th, tỉnh Hải Dương.
2- Bị đơn: anh Phạm Hồng N, sinh năm 1983 (có mặt) Nơi cư trú: số nhà, phố T, thị trấn Nh, huyện T, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/6/2020, tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn – chị Vi Thị H trình bày: Chị kết hôn với anh N năm 2009 và có 01 con chung. Năm 2015, chị và anh Phạm Hồng N đã giải quyết ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 134/2015/QĐST-HNGĐ ngày 10/8/2015, chị và anh N đã thỏa thuận anh N tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Phạm Thị Thu U, sinh ngày 15/12/2009. Kể từ khi anh N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu U, chị đã nhiều lần đến thăm nom cháu U nhưng anh N và gia đình anh N ngăn cản không cho chị thăm con lần nào tại nhà anh N, chị phải đến trường học để lén gặp cháu U. Nhiều lần chị phải nhờ gặp con qua ban giám hiệu nhà trường và cô giáo chủ nhiệm của cháu U. Ngoài ra, anh N còn nhắn tin đe dọa, xúc phạm chị nhiều lần. Nay chị thấy cháu U đang tuổi dậy thì, tâm sinh lý thay đổi, cần có sự chăm sóc của người mẹ, chị yêu cầu được thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn, chị đề nghị Toà án giao cháu Un cho chị trực tiếp nuôi dưỡng.
Tại phiên toà, chị H giữ nguyên yêu cầu Toà án giao cháu U cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Chị không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.
Tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo, bị đơn là anh Phạm Hồng N trình bày: Anh và chị Vi Thị H kết hôn năm 2009, đã giải quyết ly hôn tại Tòa án vào năm 2015. Tại quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 134/2015/QĐST- HNGĐ ngày 10/8/2015, Tòa án nhân dân huyện Tân Yên đã công nhận thuận tình ly hôn giữa anh và chị Vi Thị H, công nhận sự thỏa thuận giữa anh và chị H, giao cho anh tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Phạm Thị Thu U, sinh ngày 15/12/2009. Kể từ sau khi ly hôn đến nay anh vẫn đảm bảo điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc cháu U. Hiện anh là chủ nhà xưởng sửa chữa tô tô tại thị trấn Nh, huyện T, thu nhập đảm bảo cuộc sống cả gia đình. Anh vẫn cho cháu U đi học và đóng góp các khoản tiền tại trường học đầy đủ. Cháu U hiện đang phát triển bình thường. Thực tế, kể từ sau khi ly hôn chị H không đến thăm nom, không chăm sóc cháu U. Nếu chị H đến nhà thăm con và thông báo trước cho anh và gia đình thì anh luôn tạo điều kiện cho chị H thăm nom con chung là cháu U. Nay anh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị H, anh đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Trường hợp anh được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung.
Tại phiên tòa, anh N có mặt và giữ nguyên ý kiến trên.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán: thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền, xác định mối quan hệ tranh chấp, những người tham gia tố tụng đúng, đủ; tiến hành thu thập chứng cứ, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ và hoà giải, tống đạt các văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng, chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự; Hội đồng xét xử (HĐXX) đảm bảo về thành phần, nguyên tắc xét xử; tại phiên toà HĐXX đã thực hiện đủ, đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm; Thư ký chấp hành đúng quyền hạn, trách nhiệm theo quy định; Nguyên đơn thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình quy định của BLTTDS; Bị đơn vắng mặt tại phiên kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải ngày 25/8/2020 vi phạm khoản 16 Điều 70, Điều 72 BLTTDS. Về nội dung vụ án, sau khi phân tích Kiểm sát viên đề nghị HĐXX không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vi Thị H. Anh Phạm Hồng N được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Phạm Thị Thu U. Về án phí: chị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào ý kiến đề nghị của các đương sự. Căn cứ vào kết quả thảo luận nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền: ngày 18 tháng 6 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện Tân Yên thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn của chị Vi Thị H với bị đơn là anh Phạm Hồng N trú tại số nhà, phố T, thị trấn Nh, huyện T là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự;
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của chị H:
Chị H và anh N kết hôn năm 2009, trong thời kỳ hôn nhân chị H và anh N có 01 con chung là Phạm Thị Thu U, sinh ngày 15/12/2009. Tháng 8 năm 2015, chị H và anh N đã giải quyết ly hôn và thoả thuận anh N là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Phạm Thị Thu U. Kể từ đó đến nay, anh N vẫn nuôi dưỡng con chung như đã thỏa thuận. Nay chị H cho rằng anh N đã ngăn cản việc chị thăm nom con chung, hơn nữa cháu U đã đến tuổi dậy thì, tâm sinh lý thay đổi, cần có sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết giao cháu U cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Bị đơn là anh Phạm Hồng N không chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con của chị H vì anh vẫn đảm bảo việc nuôi dưỡng con chung, anh không hề ngăn cản chị H đến thăm nom con chung sau ly hôn.
HĐXX thấy: Hiện nay, về điều kiện kinh tế để nuôi dưỡng con chung thì cả chị H và anh N đều đảm bảo, đều có khả năng dành cho cháu U những nhu cầu vật chất cơ bản. Tuy nhiên, cháu U hiện tại đang sinh sống ổn định cùng anh N, anh N vẫn đảm bảo điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc cháu U. Qua xác minh tại trường học nơi cháu U theo học và xác minh tại địa phương nơi anh N, cháu U đang sinh sống cho thấy, anh N và gia đình vẫn đảm bảo việc chăm sóc cháu U, hiện tại cháu U vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, đạt danh hiệu học sinh giỏi. Ban giám hiệu nhà trường và đại diện địa phương chưa từng chứng kiến việc anh N và gia đình ngăn cản việc thăm nom con chung của chị H. Mẹ đẻ anh N và vợ anh N là chị Nguyễn Thị Th hiện đang chung sống cùng anh N cũng có nguyện vọng đề nghị Tòa án giao cháu U cho anh N tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Mặt khác, bản thân cháu U cũng có nguyện vọng xin được tiếp tục ở với bố là Phạm Hồng N. Do vậy, HĐXX thấy yêu cầu khởi kiện của chị H là không có căn cứ chấp nhận.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh N không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.
[3] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của chị H không được chấp nhận nên chị H phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 144; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1, 2 Điều 81; Điều 82; Điều 83; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vi Thị H đối với anh Phạm Hồng N về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn. Giao cho anh Phạm Hồng N tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Phạm Thị Thu U, sinh ngày 15/12/2009. Chị Vi Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh N.
Chị Vi Thị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
2. Về án phí: Chị Vi Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số AA/2018/0006365 ngày 18 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Yên. Xác nhận chị H đã nộp đủ tiền án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 65/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
Số hiệu: | 65/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về