Bản án 65/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 65/2018/HS-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2018/HSST ngày 17 tháng 8 năm 2018; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2018/QĐST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Lò Văn D, sinh ngày 30 tháng 01 năm 1993 tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản S, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn P và bà Lò Thị T; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2018 đến nay, “có mặt”.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đinh Quang L, sinh năm 1999; cư trú tại: Xã T, huyện M, thành phốHà Nội, “vắng mặt”.

2. Anh Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1991; cư trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.

3. Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1993; cư trú tại: Thôn C, xã P, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 13/5/2018, Nguyễn Văn C ở thôn C, xã P, huyện B cùng bạn nghiện là Nguyễn Xuân Đ ở tổ dân phố T, thị trấn T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc đang ngồi uống nước ở quán bán hàng nước tại khu Kếu, xã Đ huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, thì cả hai có nhu cầu sử dụng ma túy nên đã rủ nhau mua ma túy để cùng sử dụng. C liền mượn điện thoại di động của một người không quen biết đang ngồi uống nước ở đó điện cho bạn nghiện, C chỉ biết tên là T ở thành phố P hỏi mua ma túy đá của T với số tiền là 1.000.000 đồng. Lúc này T đang ở khu vực thành phố P cùng Lò Văn D. Là bạn nghiện sẵn có ma túy nên T đồng ý và hẹn gặp C ở lối rẽ vào Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc. Sau đó T bảo với D là có người hỏi mua ma túy “đá” với giá 1.000.000 đồng để sử dụng và rủ D cùng đi bán ma túy, bán được ma túy thì tiền lời cả hai cùng sử dụng. D đồng ý và cùng T đi bộ ra khu vực cổng Công ty Honda thì nhìn thấy xe taxi nhãn hiệu Huyndai i10 biển kiểm soát 30E – 150.99 của anh Đinh Quang L ở xã T, huyện M, Thành phố Hà Nội đang dừng đợi khách. T và D đi đến nói với anh L thuê xe chở đến khu Kếu, xã Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, không nói cho anh L biết việc để bán ma túy nên anh L đã đồng ý, sau đó T lên xe taxi và ngồi ở ghế phụ phía trước, D ngồi ở ghế đằng sau xe, khi đi được khoảng 100m thì T quay xuống bí mật đưa cho D 02 gói nhỏ bên ngoài bọc bằng nilon màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá không màu, đồng thời T nói nhỏ với D là “Tí nữa nhận tiền thì đưa trước một gói, nếu nó chê ít thì đưa tiếp cho nó gói còn lại”. D đồng ý và cầm 02 gói ma túy, khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày thì D và T đi tới điểm hẹn thì T nhìn thấy C và Đ đang đợi ở ven đường. T bảo anh L sang đường và đỗ xe ở ven đường rồi T mở cửa kính xe taxi và thò tay vẫy, C đi đến xe taxi và ngồi vào ghế sau xe taxi và ngồi sát với D. T nói với C và D là “các ông nhanh lên để còn đi” sau đó T mở cửa xe taxi và đi ra ngoài. C hỏi D “hàng đâu, D lấy 01 gói ma túy chuẩn bị sẵn ra mặt ghế phía sau xe giữa vị trí của D và C ngồi. C chưa nhận gói ma túy mà lấy 800.000 đồng của mình ra đưa cho D và nói “sao ít thế”. D cầm tiền và nói “đủ tiền chưa”, C nói còn thiếu 200.000 đồng, đồng thời C vẫy tay gọi cho Đ đến. Đ đi đến lên xe ô tô và ngồi vị trí bên trái D đồng thời đưa cho D 200.000 đồng, D nhận tiền của Đ và chuẩn bị lấy thêm 01 gói ma túy nữa ra đưa cho C thì bị lực lượng Công an huyện B bắt giữ được.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nhỏ bên ngoài bằng bọc túi nilon màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá thu tại mặt ghế sau xe ô tô taxi biển kiển soát: 30E – 150.99, được niêm phong ký hiệu A, 01 gói nhỏ bên ngoài bọc bằng túi nilon màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá thu tại trên tay trái của D được niêm phong ký hiệu A1, số tiền 1.000.000 đồng D đang cầm bên tay trái, D khai là tiền bán ma túy cho C và Đ mà có. Ngoài ra tạm giữ của anh Đinh Quang L 01 chiếc xe ô tô taxi biển kiểm soát: 30E – 150.99 cùng giấy tờ đăng ký xe.

Ngày 13/5/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện B đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định mẫu gửi giám định niêm phong ký hiệu A, A1.

Tại kết luật giám định số: 628/KLGĐ ngày 17/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Tinh thể dạng đá của mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08387, khối lượng Methamphetamine có trong 0,08387 gam mẫu là 0,0588 gam. Hoàn trả sau giám định 0,0000g mẫu và toàn bộ bao gói.

Tinh thể dạng đá của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,0363 gam. Khối lượng Methamphetamine có trong 0,0363 gam mẫu là 0,0259 gam. Hoàn trả sau giám định 0,0000g mẫu và toàn bộ bao gói”.

Tại bản cáo trạng số 62/CT-VKSBX ngày 17/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Lò Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lò Văn D từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng và án phí theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Xét thấy tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình, cụ thể: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 13/5/2018, tại khu vực đường Quốc lộ 2A thuộc địa phận khu Kếu, xã Đ, huyện B, Lò Văn D đang có hành vi bán trái phép 02 gói ma túy đá (loại Methamphetamine) có tổng trọng lượng 0,1200 gam (tinh chất là 0,0847 gam) với giá 1.000.000 đồng cho Nguyễn Văn C và Nguyễn Xuân Đ thì bị Cơ quan điều tra – Công an huyện B bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật nêu trên.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác. Phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Kết luận giám định khối lượng Methamphetamine của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc,...Từ những căn cứ trên có đủ cơ sở để kết luậnViện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Lò Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, không oan sai. Điều 251 Bộ luật hình sự qui định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến07 năm”.

 [2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo có tuổi đời còn trẻ nhưng đã nghiện ma túy và ngang nhiên mua ma túy đá để bán cho các con nghiện mục đích thu lợi cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Đặc biệt hiện nay tệ nạn ma túy trong cả nước nói chung cũng như ở địa bàn huyện B diễn biến ngày càng phức tạp gây nhiều hậu quả xấu, tác động trực tiếp vào từng cá nhân, từng gia đình và toàn xã hội. Tệ nạn ma túy kéo theo một loạt các tội phạm như: Trộm cắp, giết người, chiếm đoạt tài sản…và rất nhiều các loại bệnh tật nguy hiểm, trong đó có căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo Lò Văn D là người nghiện ma túy, bản thân chưa có tiền án, tiềnsự, có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo còn là người dân tộc thiểu số nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành một công dân có ích cho xã hội.

 [3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp, tài sản, thu nhập gì nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [4] Về xử lý vật chứng:

Đối với số tiền 1.000.000 đồng thu giữ của D là tiền do bán ma túy mà có nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai i10 biển kiểm soát 30E – 150.99 do anh Đinh Quang L điều khiển. L không biết D bán ma túy. Vì vậy ngày 18/5/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện B đã trả lại cho anh Đinh Quang L. Sau khi nhận lại tài sản, anh L không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với toàn bộ bao gói do cơ quan giám định hoàn lại cần tịch thu, tiêu hủy.

 [5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 [6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Điều tra viên của Cơ quan điều tra – Công an huyện B, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án, khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn, trưng cầu giám định, lấy lời khai của bị can và những người tham gia tố tụng, kết luận điều tra, ban hành cáo trạng. Thời hạn điều tra, truy tố đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của cơ quan và người tiến hành tố tụng. Vì vậy, hành vi, quyết định của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

 [7] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tại phiên tòa về tội danh cũng như mức hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lò Văn D 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 13 tháng 5 năm 2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) là tiền do bị cáo phạm tội mà có.

Tịch thu, tiêu hủy mẫu giám định và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định.

Các vật chứng, tài sản trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vậtchứng, tài sản ngày 27 tháng 8 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lò Văn D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về