Bản án 65/2018/HSST ngày 22/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 65/2018/HSST NGÀY 22/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 5 năm 2018, Tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, thành phố Hà Nội. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 62/2018/HSST ngày 26/4/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh H - sinh năm 1982; Nơi ĐKNKTT: Đội 4, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội và chỗ ở hiện nay: Ngõ 26, đội 3, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không; Con ông: Nguyễn Huy L (chết); Con bà: Phạm Thị T; Anh, chị, em ruột: Có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba. Có chồng là Nguyễn Văn H , có 04 ( con lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2016). Danh chỉ bản số 0192 ngày 10/4/2018 Công an huyện T lập; Tiền án: tiền án, tiền sự: không Bị cáo, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

Người bị hại: Anh Đinh Văn T - sinh năm 1985

Nơi ĐKNKTT: Xóm 1, xã G, huyện G, tỉnh N

Nơi ở: Xóm 2, ngõ 12, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội.

Vắng mặt phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Thanh H ở cùng khu trọ với anh Đinh Văn T (sinh năm: 1985, HKTT: Xóm 1, xã G, huyện G, tỉnh N) ở ngõ 20, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội. Khoảng 18 giờ ngày 31/10/2016, H dùng một chiếc búa đinh dài 38 cm đập gẫy then cài cửa phòng trọ của anh T nhằm mục đích trộm cắp tài sản. Sau đó, H bảo con gái H là cháu Lương Thị Tuyết N (sinh ngày 24/9/2005) đi vào phòng trọ của anh T lục tìm tài sản còn H đứng ở cửa để cảnh giới. Cháu N đi vào phòng anh T lấy được một tập tiền gồm các tờ mệnh giá: 5.000đồng, 2.000đồng, 1.000 đồng, 500 đồng (tổng cộng là: 363.000đồng) để trên bàn làm việc gần cửa sổ phòng trọ. Sau đó, cháu N cầm tiền đưa cho H đem về phòng trọ của H.

Ngày 01/11/2016, H đã đến Công an T đầu thú, Cơ quan điều tra đã thu giữ của H: 02 cọc tiền lẻ tổng số 363.000 đồng, 01 búa đinh, 02 then bằng kim loại, 01 ổ khoá hình trụ.

Quá trình điều tra đã xác định được H còn thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản khác tại phòng trọ của anh T, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: khoảng chiều 26/7/2016, H cậy cửa sổ phòng trọ của anh T và lấy 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Toshiba màu nâu để trên bàn ngay sát cửa sổ, sau đó, H mang chiếc máy tính nêu trên đến cửa hàng của anh Ngô Văn Đ (sinh năm 1985, HKTT: Đội 4, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội) bán được 1.000.000 đồng. Số tiền này H đã chi tiêu hết.

Vụ Thứ 2: Khoảng chiều một ngày đầu tháng 10/2016, H thuê thợ sửa khoá là anh Vũ Quốc Q (SN: 1983, HKTT: Đội 7, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội) đến mở khoá phòng trọ của anh T. Sau khi mở khoá xong, H bảo con gái là Lương Thị Tuyết N đi vào phòng anh T cùng H lục tìm tài liệu để trộm cắp. H lục trong túi xách màu đỏ đen treo ở mắc quần áo trên tường được một tập tiền mệnh giá 500.000đồng, 200.000đồng, 100.000đồng còn cháu N lục trong quyển sổ màu đen để trên bàn làm việc cạnh cửa sổ được một tập tiền gồm các mệnh giá khác nhau, cháu N đưa tất cả số tiền trên cho H cầm. Sau đó H khoá phòng trọ lại như cũ rồi đi về phòng trọ của mình và kiểm tra số tiền lấy được là 5.700.000đồng. Số tiền này H đã chi tiêu hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 43 ngày 01/6/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc máy tính xách tay Toshiba có giá trị: 4.700.000đồng.

Ngày 30/3/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T đã trả lại cho anh T số tiền 363.000đồng. Ngày 02/11/2016, H đã tự nguyện bồi thường cho anh T số tiền 10.000.000đồng, anh T đã nhận đủ số tiền trên, không có yêu cầu gì khác về phần dân sự.

Đối với cháu Lương Thị Tuyết N, cháu N có hành vi cùng đồng phạm với H trộm cắp tài sản như nêu trên nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội, cháu N chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra không đề cặp xử lý.

Đối với anh Ngô Văn Đ, khi anh Đ mua chiếc máy tính xách tay của H, anh Đ không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Tại bản cáo trạng: số 58/KSĐT ngày 20/4/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Nguyễn Thị Thanh H về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 -Bộ luật hình sự năm 1999 (khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà:

Bị cáo Nguyễn Thị Thanh H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, thừa nhận tội danh bị truy tố là đúng.

Người bị hại là anh Đinh Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt, đã nhận đủ số tiền bồi thường của bị cáo là 10.000.000 đồng và không có ý kiến gì về phần dân sự. Do đó hội đồng xét xử không xét về phần dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh H từ 08 (tám) đến 12 (mười hai) tháng tù. Đề nghị Hội đồng xét sử tịch thu tiêu huỷ 01 chiếc búa, 02 then kim loại hình trụ, 01 ổ khoá (đã qua sử dụng).

Về dân sự: người bị hại anh T đã nhận lại toàn bộ tài sản và không có yêu cầu gì phần dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập, không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; Căn cứ kết quả thẩm tra chứng cứ và xét hỏi tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Khoảng chiều ngày 26/07/2016, Nguyễn Thị Thanh H đã cậy cửa sổ phòng trọ của anh Đinh Văn T ở ngõ 20, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội vào lấy trộm 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Toshiba màu nâu trị giá 4.700.000 đồng của anh T. Cũng tại phòng trọ của T, H còn có hành vi bảo con gái Hương là cháu Lương Thị Tuyết N (sinh năm 2005) cùng thực hiện hành vi trộm cắp như sau: Khoảng chiều một ngày đầu tháng 10/2016, H cùng cháu N trộm cắp 5.700.000đồng của anh Tiên.

Khoảng 18 giờ ngày 31/10/2016, H lại cùng cháu N thực hiện khi cháu N chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Đối chiếu pháp luật hình sự Nguyễn Thị Thanh H đã phạm tội "Trộm cắp tài sản" được quy định tại khoản 1 Điều 138 - Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có cơ sở pháp lý.

[2] Như vậy hành vi chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Thị Thanh H đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản" được quy định tại khoản 1 Điều 138 - Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ pháp lý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội, do vậy cần thiết xử lý bị cáo bằng pháp luật để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng: trong vụ án này bị cáo có 02 tình tiết tăng nặng điểm g, điểm 0 Điều 52 - Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thể hiện có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại Điểm i Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 - Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại quy định tại điểm b khoản 1- Điều 51 - bộ luật hình sự năm 2015.

Tòa xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, do vậy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Có thể áp dụng mức hình phạt thấp đối với bị cáo.

Về phần dân sự: Người bị hại anh Đinh Văn T đã nhận lại toàn bộ tài sản, không có yêu cầu gì khác, do vậy Tòa không xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập, ổn định, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: 01 chiếc búa, 02 then kim loại hình trụ, 01 ổ khoá (đã qua sử dụng ), không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 106 - Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thanh H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s, i, khoản 1, Điều 51, điểm g, o khoản 1 Điều 52 - Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Thị Thanh H 09 (chín) tháng tù, Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 chiếc búa, 02 then kim loại hình trụ, 01 ổ khoá (theo biên bản bàn giao vật chứng tại chi cục thi hành án dân sự huyện T ngày 21/5/2018 ).

Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 20, 22, Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm .

Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên toà, có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đựơc tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Về việc thi hành án: Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định của Toà án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2018/HSST ngày 22/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:65/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về