Bản án 64/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 64/2020/HSST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2020/HSST ngày 15 tháng 9 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 181/2020/QĐXXST – HS ngày 15 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Hng A G; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1999 tại: Huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Cụm C H, thuộc bản K, xã M L, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Hạng A S, sinh năm: 1960 và bà Thào Thị B, sinh năm: 1962; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020 tại nhà tạm giữ Công an huyện Sốp Cộp, cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 13/6/2020, tại bản Nà Khoang, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, tổ công tác Đồn biên phòng Nậm Lạnh phối hợp với cán bộ phòng chống tội phạm ma túy Bộ chỉ huy bộ đội Biên Phòng tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang đối tượng Hạng A G ( Sinh năm: 1999, trú tại: Bản K, xã M L, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La) về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng của đối tượng gồm:

- 01 gói ni lon màu xanh, bên trong có bột màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp. Do đối tượng cất dấu bên trong vỏ đựng dao làm bằng gỗ; - 01 vỏ đựng dao làm bằng gỗ;

- 01 con dao cán nhựa dài 12 cm, lưỡi nhọn dài 30 cm.

Ngày 15/6/2020, tại cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã tiến hành cân tịnh vật chứng là số chất bột màu hồng thu giữ của đối tượng Hạng A G có khối lượng 0,19 gam ( Không phẩy mười chín gam), sử dụng toàn bộ 0,19 gam đánh ký hiệu G làm mẫu vật gửi giám định.

Ti bản Kết luận giám định số: 989 ngày 17/6/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

- Mẫu gửi giám định ký hiệu G là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,19 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,19 gam, loại Methamphetamine;

- Hoàn lại đối tượng giám định: 0,11 gam chất bột màu hồng là số ma túy không sử dụng đến trong quá trình giám định.

Ti Cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, bị can Hạng A G đã khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 10/6/2020, Hạng A G trong lúc đi bẫy chim tại khu vực đường tuần tra biên giới, thuộc bản Pu Hao, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, thì gặp và mua được của 01 người đàn ông dân tộc Mông quốc tịch Lào không quen biết 01 gói bột ma túy tổng hợp ( Hồng phiến ) với giá 60.000đ ( Sáu mươi nghìn đồng ). Sau khi mua được ma túy G mang về cất dấu trong bếp nhà mình. Đến khoảng 07 giờ ngày 13/6/2020 có Sộng A D ( Người cùng bản ) đến rủ G đi bẫy chim ở bản Nà Khoang, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, G nhận lời đi cùng đồng thời chủ động mang theo vỏ đựng dao bên trong có 01 con dao nhọn và gói ma túy mua được từ hôm mồng 10/6/2020 với mục đích để sử dụng riêng cho bản thân. Trên đường đi bẫy chim tại khu vực bản Nà Khoang, xã Mường Và thì gặp tổ công tác Đồn biên phòng Nậm Lạnh phối hợp với cán bộ phòng chống tội phạm ma túy Bộ chỉ huy bộ đội Biên Phòng tỉnh Sơn La đang làm nhiệm vụ. Quá trình kiểm tra tổ công tác đã phát hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy do G cất dấu trong vỏ đựng dao như đã nêu.

Ti bản Cáo trạng số: 71/CT - VKS ngày 14/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Hạng A G về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ti phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, giữ quan điểm truy tố bị cáo Hạng A G, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Hạng A G phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 16 đến 20 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,11 gam Methamphetamine ( Số không sử dụng đến trong quá trình giám định ); 01 mảnh ni lon màu xanh; 01 bao đựng dao làm bằng gỗ và 01 con dao nhọn cán nhựa dài 12 cm, lưỡi dài 30 cm.

Về án phí: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Ti phiên tòa bị cáo có ý kiến: Thừa nhận ngày 13/6/2020 đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 0,19 gam Methamphetamine, với mục đích là để sử dụng cho bản thân. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 13/6/2020, bị cáo Hạng A G ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý ( 0,19 gam Methamphetamine) với mục đích để sử dụng cho cá nhân ( Thỏa mãn cơn nghiện ). Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ là ma túy; kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Hạng A G đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp là có căn cứ, đúng pháp luật.

Ti Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine,Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi tội phạm bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước hết là xâm hại đến chính sức khỏe, tài sản của bị cáo; sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng; là nguyên nhân làm phát sinh, lây lan tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy đang có chiều hướng ngày càng phức tạp trong xã hội hiện nay. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ý thức chấp hành pháp luật.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội, nên được xem xét, áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào động cơ mục đích phạm tội của bị cáo không nhằm thu lợi về vật chất. Do vậy Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng.

[8] Xử lý vật chứng:

- Đối với số 0,11 gam Methamphetamine ( Số còn lại không sử dụng đến trong quá trình giám định ) và 01 mảnh ni lon màu xanh là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và là vật nhà nước cấm lưu hành. Do vậy cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với vỏ đựng dao và 01 con dao nhọn bị cáo sử dụng để cất dấu ma túy. Xét không còn nhiều giá trị sử dụng. Do vậy cần áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của 01 người đàn ông dân tộc Mông quốc tịch Lào không quen biết tại khu vực đường tuần tra biên giới, thuộc bản Pu Hao, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng. Nên không có cơ sở để điều tra xử lý. [10] Bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

[11] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Hạng A G phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Hạng A G 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 13/6/2020 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

Căn cứ khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tiếp tục tạm giam bị cáo Hạng A G trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 (Một) phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín bằng giấy dán niêm phong, một mặt phong bì ghi: "Vật chứng vụ: Hạng A G - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 13/6/2020 tại bản Nà Khoang, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; bên trong có chứa 01 phong bì niêm phong cũ và 01 mảnh ni lon màu xanh cũ ". Mặt còn lại của phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La phát hành số seri:

010569 vào mép dán của phong bì, trên mép dán giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, chữ ký, họ tên của người bị bắt Hạng A G và hai hình dấu tròn đỏ của Đồn Biên phòng Nậm Lạnh.

+ 01 (Một) phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín. Mặt trước phong bì ghi: " CÔNG AN TỈNH SƠN LA, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, PHONG BÌ NIÊM PHONG. Vật chứng vụ: Hạng A G - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 13/6/2020, tại xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi 15 giờ 00 phút, ngày 19 tháng 6 năm 2020. Tại Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn la. Gồm có: Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu G không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,11 gam ". Mặt còn lại của phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La phát hành số seri: 010683 vào mép dán của phong bì, trên mép dán giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La. ( Theo kết luận giám định số: 989 ngày 17/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La thì chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định, có khối lượng 0,11 gam là ma túy; loại Methamphetamine).

+ 01 bao dao bằng gỗ;

+ 01 con dao cán nhựa dài 12 cm, lưỡi nhọn dài 30 cm, tổng chiều dài 42 cm, phần lưỡi rộng 4,7 cm.

3. Án phí:

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về