TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 64/2020/HSST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2020/TLST- HS ngày 12 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
Bùi Minh Đ, sinh năm 1992, tại Bình Phước; HKTT: Thôn BT, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; con ông Bùi L và bà Huỳnh Thị H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: (không); bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 03/7/2020; có mặt tại phiên tòa.
Người tham gia tố tụng khác:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bùi Văn Q, sinh năm 1977; trú tại: Thôn BT, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; (có mặt).
Người chứng kiến:
Tạ Ngọc T, sinh năm 1984; trú tại: Thôn BT, xã PM, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước; (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trưa ngày 03/7/2020, Bùi Minh Đ điều khiển xe mô tô 93H8 - 4666 đi đến nhà Mai Thành c ở thôn BT, xã Đ, huyện Bù Gia Mập chơi. Trên đường đi Đ đến khu vực xã TH, huyện BĐ để mua ma túy đem về sử dụng; tại đây, Đ gặp và đưa cho đối tượng không rõ nhân thân lai lịch 300.000 đồng, đối tượng đưa cho Đ01 gói nylon bên trong chứa ma túy. Sau khi mua ma túy, Đ điều khiển xe quay về, khi đi đến thôn BT, xã PM, huyện Bù Gia Mập thì bị Công an huyện Bù Gia mập và Công an xã PM kiểm tra phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nylon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô biển kiểm soát 93H8 - 4666; 01 điện thoại di động Nokia 130; 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus.
Tại kết luận giám định số’ 162/2020/GĐ-MT ngày 08/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,2438 gam.
Ngày 09/7/2020, Bùi Minh Đ bị Công an huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước khởi tố bị can để điều tra.
Tại bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 09 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập đã truy tố Bùi Minh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoán 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và đề nghị mức án đối với bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Đồng thời, đề nghị xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định 0,1702gam; trả lại cho Bùi Minh Đ 01 điện thoại di động Nokia 130; 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus; trả lại cho Bùi Văn Quang 01 xe mô tô biển kiểm soát 93H8 - 4666.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng có ý kiến như sau:
- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bùi Văn Q khai: Xe mô tô 93H8- 4666 là của ông Q mua lại của Nguyễn Năng Ph chưa làm thủ tục sang tên, Q cho Đ mượn xe làm phương tiện đi lại. Ngày 03/7/2020, Đ sử dụng xe để đi mua ma túy thì Q không biết, ông Q xin được nhận lại xe.
- Người chứng kiến Tạ Ngọc T khai (bút lục 50 - 53): 12 giờ 45 ngày 03/7/2020, trên đường đi làm, khi đến cầu Đ anh T thấy lực lượng công an đang kiểm tra một thanh niên, phát hiện trên người thanh niên 01 túi nylon hàn kín, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, người thanh niên khai là ma túy mua về sử dụng, sau đó công an thu giữ túi nylon và mời những người liên quan về trụ sở Công an làm việc.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều ha Công an huyện Bù Gia Mập, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố Tụng hình sự. Quá trình điều ha và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về áp dụng Bộ luật Hình sự để xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14. Các hành vi phạm tội thực hiện từ ngày 01/01/2018 trở đi thì áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 để giải quyết.
[3] Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo cơ bản phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Đ là người nghiện ma túy, đã mua ma túy của một người (không rõ nhân thân, lai lịch) tại TH, huyện BĐ, Bình Phước với giá 300.000 đồng để về sử dụng. Khi đi đến thôn BT, xã PM, huyện Bù Gia Mập thì bị Công an huyện Bù Gia mập và Công an xã PM kiểm tra phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Theo kết quả giám định thì tinh thể màu trắng có trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,2438 gam.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma tuý. Tệ nạn ma túy đang là môi quan tâm lo lắng của toàn xã hội, vì ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xâu đến sức khỏe, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm; bị cáo nhận thức được điều đó, nhưng vẫn mua cất giữ ma túy để sử dụng. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ mục đích cá nhân. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Viện kiểm sát truy tố và luận tội bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người thực hiện hành vi tàng trữ ma túy trái phép; chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội tương xứng với hành vi của bị cáo, nhằm giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma túy và phòng ngừa chung.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, đây là tình tiết giảm nhẹ được xem xét khi lượng hình quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[7] Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với bị cáo là phù hợp và đề nghị xử lý vật chứng là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8] Về vật chứng: Ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định 0,1702gam là vật cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động Nokia 130 và 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus là của bị cáo Đ không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo; 01 xe mô tô biển kiểm soát 93H8 - 4666 của Bùi Văn Q không biết bị cáo dùng để đi mua ma túy, nên trả lại cho anh Q.
[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Bùi Minh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Bùi Minh Đ 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 03/7/2020. Quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự
- Tịch thu tiêu hủy: Ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định 0,1702gam.
- Trả lại cho Bị cáo Bùi Minh Đ: 01 điện thoại di động Nokia 130 và 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus.
- Trả lại cho anh Bùi Văn Q 01 xe mô tô biển kiểm soát 93H8 - 4666.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2020 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện và cơ quan Thi hành án dân sự huyện Bù Gia Mập)
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (26/11/2020).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 64/2020/HSST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 64/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về