Bản án 64/2020/HSST ngày 13/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 64/2020/HSST NGÀY 13/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 46/2020/HSST ngày 17/02/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐXXST-HS ngày 02/3/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Đức Đ; giới tinh: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 23 tháng 9 năm 1967; nơi đăng ký HKTT: tổ 3, phường Q, thành phố Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; học vấn: 10/10; nghề nghiệp: Không; con ông Phạm Đức Ph ( đã chết) và bà Nguyễn Thị Th; chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiên an: Bản án số 94 ngày 28/3/2012 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt Phạm Đức Đ 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2020 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 20 giờ 25 phút ngày 11/01/2020, tổ công tác của Công an phường T, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra tại tổ 6, phường T, thành phố Thái Nguyên, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tại túi áo bên trái của Phạm Đức Đ 01 gói nhỏ bằng giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng, Đ khai là Heroine. Tại bản kết luận giám định số 220/KL-KTHS ngày 17/01/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu Đ1 gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng là 0,232 gam.

Ti Cơ quan điều tra, Phạm Đức Đ khai: Khoảng 19 giờ 50 phút ngày 11/01/2020, Đ đi bộ từ nhà đến khu vực phường T, thành phố Thái Nguyên, tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đ gặp và mua 01 gói ma túy được gói trong giấy nilon màu trắng với giá 300.000 đồng của một người phụ nữ không quen biết. Đ cất gói ma túy vừa mua được vào trong túi áo bên trái đang mặc đi tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu Đ1;

Tại bản cáo trạng số 57/CT-VKSTPTN ngày 12/02/2020, VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Phạm Đức Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Đức Đ khai nhận rõ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 57/CT-VKSTPTN ngày 12/02/2020, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Đức Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Phạm Đức Đ từ 18 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bi cáo; tịch thu tiêu hủy vật chứng.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Đức Đ tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu được, Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; đó là:…

c) Heroine ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[3] Bản cáo trạng số 57/CT-VKSTPTN ngày 12/02/2020VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Phạm Đức Đ theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[4] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[5] Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là tái phạm.

Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[6] Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: bị cáo là người nghiện, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: cần tịch thu, tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định niêm phong ký hiệu Đ1.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

1/ Xử phạt Phạm Đức Đ 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 11/01/2020.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Quyết định tạm giam bị cáo Phạm Đức Đ 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu Đ1 (bên trong có chứa 0,209 gam mẫu Đ1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu Đ1) mặt sau có 02 dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trương Đăng Tam.

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 149 ngày 14/02/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

4/Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí: buộc bị cáo Phạm Đức Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HSST ngày 13/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về