Bản án 64/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 64/2020/HS-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 70/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Hồ Quốc Th, sinh năm 1996 tại Đồng Nai; nơi cư trú: Số 604, tổ 5, khu phố T, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa:

8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn H (chết) và bà Tạ Thị T (1958); bị cáo là con út trong gia đình có 05 (Năm) anh chị em và chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 01/5/2020 đến ngày 08/5/2020 bị áp dụng biện pháp tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thống Nhất. (Có mặt) - Người làm chứng:

1. Bà Tạ Thị T sinh năm 1958 Nơi cư trú: Tổ 5, khu phố T, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt) 

2. Anh Trần Duy H1 sinh năm 1996 Nơi cư trú: Tổ 5, khu phố P, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Quốc Th sử dụng ma túy đá từ đầu năm 2020 đến nay. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 30/4/2020, Th sử dụng điện thoại di động của bà Tạ Thị T (mẹ ruột của Th) để liên lạc với một đối tượng tên thường gọi là Tý Bói (không xác định được nhân thân lai lịch) nhờ mua giúp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) ma túy đá về sử dụng. Đối tượng Tý Bói đã hẹn Th giao ma túy tại đầu đường hẻm đối diện nhà thờ Xuân Long thuộc khu phố T, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày, Th đi bộ đến điểm hẹn để nhận ma túy đựng trong 01 (một) túi nylon hàn kín và đưa cho Tý Bói số tiền 180.000đ (Một trăm tám mươi nghìn đồng) và nợ lại 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng). Sau khi có ma túy, Th cất giấu vào túi quần phía trước bên phải và đi bộ đến nhà người bạn là Lê Giang Đ để rủ Đ cùng sử dụng ma túy. Trên đường đi Th bị lực lượng Công an thị trấn D phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Ti Bản kết luận giám định số 851/KLGĐ-PC09, ngày 07 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1235 gam, loại: Methamphetamine.

Ti Cáo trạng số 71/CT.VKS-TN ngày 13 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Hồ Quốc Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Th từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử quyết định về án phí hình sự sơ thẩm và xử lý vật chứng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hồ Quốc Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tham gia tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Người làm chứng - bà Tạ Thị T, anh Trần Duy H mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của bà T và anh H không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

2 Về tội danh và khung hình phạt: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 23 giờ 00 phút ngày 30/4/2020, tại tổ 8, khu phố T, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Hồ Quốc Th có hành vi tàng trữ trái phép 0,1235 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an thị trấn Dầu Giây phát hiện và bắt giữ quả tang cùng tang vật. Như vậy, hành vi của Hồ Quốc Th thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung hình phạt “ ..., Methamphetamine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 71/CT.VKS-TN ngày 13/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Hồ Quốc Th về tội danh và khung hình phạt như đã nêu trên là đúng người, đúng tội và không oan sai cho bị cáo.

3 Về tính chất, mức độ hành vi của bị cáo: Xét tính chất của vụ án thấy rằng, tình hình tội phạm ma túy nói chung và trên địa bàn huyện Thống Nhất nói riêng có chiều hướng phức tạp, với tính chất ngày càng nghiêm trọng, gây nhức nhối cho xã hội và trở thành nỗi lo của nhiều gia đình. Hậu quả do tệ nạn ma túy gây ra rất nghiêm trọng, làm tổn hại sức khỏe của một bộ phận nhân dân, đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện, người nghiện ma túy ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể chất và tinh thần. Bị cáo nhận thức được hành vi mà mình thực hiện là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác, do ăn chơi đua đòi nên bị cáo đã mắc vào tệ nạn xã hội (nghiện ma túy). Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, là căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

5 Về quyết định hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội nên cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo suy nghĩ về hành vi phạm tội của mình, tự giác cải tạo, học tập, lao động trở thành công dân sống lương thiện, có ích cho xã hội và biết tuân thủ pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền…”. Tuy nhiên, do bị cáo không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]Về vật chứng vụ án:

- Một gói niêm phong số 851/KLGĐ-PC09, bên trong chứa khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,0943gam) là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Một điện thoại di động hiệu Iphone 5S, màu nâu, số sim 0972186084 là tài sản của bị cáo nhưng bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trả lại cho bị cáo là phù hợp.

- Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số sim 359483360 bị cáo sử dụng làm phương tiện liên hệ với Tý Bói để mua ma túy là tài sản của mẹ bị cáo (bà Tạ Thị T). Việc bị cáo sử dụng điện thoại di động của bà T để liên lạc mua ma túy bà T không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất không tiến hành thu giữ điện thoại di động của bà T là có căn cứ.

[8] Các vấn đề khác: Đối tượng tên Tý Bói ở khu phố P, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai là người đã bán ma túy cho Hồ Quốc Th. Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên chưa có căn cứ để xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất sẽ tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

9 Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và đề xuất về mức hình phạt đối với bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; Điều 50 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Điều 106; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Quốc Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hồ Quốc Th 01 (Một) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/5/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) gói niêm phong số 851/KLGĐ-PC09, bên trong chứa khối lượng ma túy còn lại (0,0943 gam) sau giám định (theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14 tháng 8 năm 2020 giữa Công an huyện Thống Nhất và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất).

3. Về án phí: Buộc bị cáo Hồ Quốc Th phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về