TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 64/2017/HSPT NGÀY 05/07/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 05/7/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 62/2017/HSPT ngày 17/4/2017 đối với bị cáo Hồ Văn K. Do có kháng cáo của người bị hại Lê Tấn P đối với bản án hình sự sơ thẩm số 03/2017/HSST ngày 28/02/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lý S, tỉnh Quảng Ngãi.
* Bị cáo không kháng cáo nhưng bị kháng cáo:
Họ và tên bị cáo: HỒ VĂN K Sinh năm: 1968;
Nơi đăng ký HKTT: Xã Hành T, huyện Nghĩa H, tỉnh Quảng Ngãi; Chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã An V, huyện Lý S, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 8/12;
Con ông Hồ Đ (Chết) và bà Nguyễn Thị H;
Có vợ tên là Ngô Thị B và có 5 con, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 2014;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại giam Kim Sơn theo Quyết định thi hành hình phạt tù số 04/2017/QĐ-CA ngày 31/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lý S; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;
Người bị hại: Ông Lê Tấn P, sinh năm 1974; Trú tại: Thôn T, xã An V, huyện Lý S, tỉnh Quảng Ngãi; Có mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý S và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Lý S thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 06/8/2016, anh Hồ Văn X (là con của bị cáo Hồ Văn K) đến nhà ông Lê Tấn P để nói chuyện với chị Lê Thị H (là con của ông P) về việc chị H cho rằng anh X là người trộm cắp hai bóng đèn LED xe mô tô nhãn hiệu Nouvo của chị H. Trong quá trình nói chuyện, anh X tức giận nên dùng tay đánh vào mặt gây thương tích cho chị Hội 3% nên chị H cùng với gia đình bắt anh X để giao lại cho Công an xã An V giải quyết. Đến 12 giờ cùng ngày, ông Hồ Văn K biết được việc con mình đang bị ông Lê Tấn P bắt giữ nên tới nhà ông P dùng tay đánh vào quai hàm phải của ông P. Chị H và ông P được người nhà đưa xuống Trung tâm y tế Quân dân y Lý S để điều trị vết thương. Đến ngày 07/8/2016, ông Lê Tấn P được chuyển ra Bệnh viện Đà Nẵng để tiếp tục phẫu thuật điều trị vết thương.
Tại Bản kết luận Giám định pháp y về thương tích số 137/2016/GĐPY ngày 22/9/2016 kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của ông Lê Tấn P là 12%.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 03/2017/HSST ngày 28/02/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lý S, tỉnh Quảng Ngãi quyết định:
Tuyên bố bị cáo Hồ Văn K phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 104; các điểm b, p, h khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Hồ Văn K 7 (bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2016 đến ngày 01/12/2016.
Về phần trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 42 Bộ luật hình sự và Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Hồ Văn K phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Lê Tấn P số tiền 21.912.000 đồng được khấu trừ số tiền 1.000.000 đồng đã bồi thường trước (theo biên lai thu tiền số AA/2010/02025 ngày 09/02/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lý S). Bị cáo Hồ Văn K còn phải tiếp tục bồi thường 20.912.000 đồng cho ông Lê Tấn P.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí, và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 13/3/2017, ông Lê Tấn P có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu bị cáo Hồ Văn K phải bồi thường số tiền thu nhập thực tế bị mất là 12.600.000 đồng, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe trong lúc nằm viện điều trị là 6.300.000 đồng, tiền bù đắp về tổn thất tinh thần là 12.100.000 đồng.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Lê Tấn P vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo
Ngoài ra, ông Lê Tấn P cung cấp tài liệu, chứng cứ sau khi xét xử sơ thẩm, từ ngày 17/3/2017 đến ngày 28/3/2017 (11 ngày) ông nhập viện tại Bệnh viện Đà Nẵng để tháo nẹp vis, ông yêu cầu Tòa án phúc thẩm xem xét buộc bị cáo Hồ Văn K bồi thường các khoản chi phí điều trị gồm: tiền thuốc, tiền công mất thu nhập của người bị hại, tiền công mất thu nhập của người chăm sóc, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe, tiền tàu xe.
Xét kháng cáo của ông Lê Tấn P, thì thấy:
Đối với kháng cáo yêu cầu bị cáo Hồ Văn K phải bồi thường số tiền thu nhập thực tế bị mất là 12.600.000 đồng: Ông Lê Tấn P bị Hồ Văn K đánh mất răng 4.8, gãy xương hàm dưới phải, sau khi ra viện ông P tiếp tục dùng thuốc điều trị và tái khám theo lời dặn của bác sỹ nên không thể lao động ngay sau khi ra viện được, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc bị cáo Hồ Văn K bồi thường cho ông P tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị tại Bệnh viện là không phù hợp, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Lê Tấn P. Do đó, ông Lê Tấn P kháng cáo yêu cầu bị cáo bồi thường tiền mất thu nhập 42 ngày là có căn cứ, phù hợp với thời gian điều trị thương tích của ông P, nên buộc bị cáo Hồ Văn K phải bồi thường tiền mất thu nhập cho ông P trong thời gian điều trị tại Bệnh viện và sau khi về nhà không lao động được số tiền là 12.600.000 đồng (42 ngày X 300.000 đồng).
Đối với kháng cáo yêu cầu bị cáo Hồ Văn K bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh thần là 12.100.000 đồng: Hành vi đã gây tổn thất về tinh thần cho ông P. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị cáo Hồ Văn K bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là hai tháng lương cơ sở, thành tiền 2.420.000 đồng là phù hợp. Do đó, không chấp nhận kháng cáo về phần này của ông Lê Tấn P.
Đối với kháng cáo yêu cầu tăng số tiền bồi dưỡng và phục hồi sức khỏe trong lúc nằm viện điều trị và sau khi ra viện là 6.300.000 đồng: Xét thương tích của ông Lê Tấn P là 12%, cấp sơ thẩm đã xem xét và buộc bị cáo bồi thường tiền bồi dưỡng cho ông P 1.800.000 đồng là phù hợp. Do đó, không chấp nhận kháng cáo về phần này của ông Lê Tấn P.
Đối với yêu cầu của ông Lê Tấn P buộc bị cáo bồi thường thiệt hại các khoản chi phí trong thời gian 11 ngày nhập viện để phẫu thuật tháo nẹp vis: Ông Lê Tấn P nhập viện tại bệnh viện Đà Nẵng ngày 17/3/2017, ra viện vào ngày 28/3/2017 (11 ngày), các hóa đơn chứng từ hợp lệ được chấp nhận gồm: tiền thuốc điều trị 182.306 đồng, tiền tàu xe 782.000 đồng, tiền ngày công mất thu nhập trong thời gian điều trị 3.300.000 đồng (300.000 đồng X 11 ngày). Đối với các yêu cầu tiền công mất thu nhập của người chăm sóc, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe, xét ông Lê Tấn P sức khỏe ổn định, bình thường, đi lại được, ông P chỉ nhập viện để tháo nẹp vis nên Hội đồng xét xử không chấp nhận các khoản yêu cầu này của ông Lê Tấn P.
Như vậy, buộc bị cáo Hồ Văn K bồi thường thiệt hại cho ông Lê Tấn P gồm các khoản cụ thể như sau:
- Tiền chi phí cấp cứu, tiền viện phí 5.008.760 đồng + 182.306 đồng = 5.191.066 đồng
- Tiền tàu xe đi và về khi điều trị và tái khám 4.582.900 đồng + 782.000 đồng = 5.364.900 đồng.
- Tiền thu nhập thực tế bị mất 12.600.000 đồng + 3.300.000 đồng = 15.900.000 đồng.
- Tiền bồi dưỡng sức khỏe sau khi điều trị 1.800.000 đồng.
- Tiền bù đắp về tổn thất tinh thần 2.420.000 đồng.
- Tiền mất thu nhập của người chăm sóc người bị hại 2.400.000 đồng.
Tổng cộng các khoản tiền trên là 33.075.966 đồng, được khấu trừ 1.000.000 đồng đã bồi thường trước, còn phải tiếp tục bồi thường số tiền là 32.075.966 đồng.
*Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của ông Lê Tấn P gồm, phần bồi thường số tiền thu nhập thực tế bị mất và yêu cầu bồi thường thiệt hại các khoản chi phí trong thời gian 11 ngày nhập viện để phẫu thuật tháo nẹp vis tại Bệnh viện Đà Nẵng. Các khoản khác mà ông Lê Tấn P yêu cầu là không có căn cứ nên không được chấp nhận. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248, khoản 3 Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Về án phí:
Vì Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của ông Lê Tấn P nên phần án phí dân sự sơ thẩm mà bị cáo phải nộp là 1.653.798 đồng (33.075.966 đồng X 5%).
Ông Lê Tấn P không phải chịu án phí phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng
Vì những lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 248, khoản 3 Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự,
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của người bị hại Lê Tấn P. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 03/2017/HSST ngày 28/02/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lý S, tỉnh Quảng Ngãi.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 104; các điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Hồ Văn K 07 (bảy) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2016 đến ngày 01/12/2016.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Hồ Văn K phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Lê Tấn P số tiền là 33.075.966 đồng, được khấu trừ số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) đã bồi thường trước, còn phải tiếp tục bồi thường số tiền 32.075.966 đồng (ba mươi hai triệu không trăm bảy mươi lăm nghìn chín trăm sáu mươi sáu đồng).
Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.000.000 đồng mà bị cáo Hồ Văn K nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lý S theo biên lai thu tiền số AA/2010/02025 ngày 09/02/2017 để đảm bảo thi hành án.
3. Về án phí:
Bị cáo Hồ Văn K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.653.798 đồng. Ông Lê Tấn P không phải chịu án phí phúc thẩm.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chậm thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo mức lãi suất do bên được thi hành án và bên phải thi hành án thỏa thuận; nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 64/2017/HSPT ngày 05/07/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 64/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về