Bản án 63/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 63/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 77/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Vương Đức H; Tên gọi khác: N. Sinh ngày 01 tháng 11 năm 1999; Nơi sinh: Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: đường A, Khóm N, Phường P, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Giới tính: Nam;Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông: Huỳnh Văn H, sinh năm 1978 và bà: Trần Thị Thùy D, sinh năm 1978; Anh chị em ruột: có 02 người, lớn là bị cáo, nhỏ sinh năm 2016; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27 tháng 5 năm 2020 và chuyển tạm giam cho đến nay. (có mặt)

2. Trần Thanh D; Sinh ngày 11 tháng 11 năm 2000; Nơi sinh: Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: đường N, Khóm B, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Giới tính: Nam;Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông: Nguyễn Hữu L, sinh năm 1961 và bà: Nguyễn Thị Mộng L1, sinh năm 1962; Anh chị em ruột: có 02 người, lớn sinh năm 1996, nhỏ là bị cáo; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự:

1 Không; Tiền án: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27 tháng 5 năm 2020 và chuyển tạm giam cho đến nay. (có mặt)

* Người bào chữa cho bị cáo D: ông Võ Bá Đ, là Luật sư thực hiện Trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 27 tháng 5 năm 2020, Đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an thành phố Sóc Trăng kết hợp Công an phường 6, thành phố Sóc Trăng bắt quả tang Trần Thanh D và Vương Đức H tại khu vực nhà số 432 đường Điện Biên Phủ, Khóm 1, Phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra phát hiện 01 gói nylon bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng, thu giữ và niêm phong.

Ti bản kết luận giám định số 68/GĐMT-PC09, ngày 30 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Mẫu viên nén màu xanh được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,1548 gam, loại Melthamphetamine.

Ti bản Cáo trạng số 77/CT-VKS.TPST ngày 06 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Vương Đức H và Trần Thanh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Ti toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vương Đức H và Trần Thanh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo; đề nghị xử phạt bị cáo H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo D từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2; điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 68/GĐMT-PC09, ngày 30 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng có chữ ký của Giám định viên Phạm Thanh Trường Sơn, Trợ lý giám định Phùng Thúy An và Điều tra viên Vương Ngọc Nam;

Trả lại cho bị cáo H: 01 điện thoại di động có chữ Nokia màu đen, sim số 0705.992.252, đã qua sử dụng;

Trả lại cho bị cáo D: 01 điện thoại di động có chữ ITEL màu xám, sim số 0762899197, đã qua sử dụng; Số tiền 300.000 đồng Giao lại Cơ quan điều tra Công an thành phố Sóc Trăng tiếp tục làm rõ chủ sở hữu để xử lý theo quy định pháp luật: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 94FF-0171, màu xanh, nhãn hiệu Halim, mang tên Võ Minh Cảnh, thu giữ của bị cáo H.

Ti tòa, các bị cáo H và D thừa nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi bị cáo thực hiện, các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

* Người bào chữa cho bị cáo D thống nhất về tội danh và áp dụng pháp luật như Kiểm sát viên đề nghị. Tuy nhiên, người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo D mức hình phạt từ 09 tháng đến 01 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiế n hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa các bị cáo Vương Đức H và Trần Thanh D khai nhận: Vào ngày 27 tháng 5 năm 2020, H rủ D mua ma túy sử dụng, thì D đồng ý, H đưa cho bị cáo D 100.000 đồng, bị cáo D mua ma túy mang cất giấu để sử dụng thì bị Công an phát hiện và kiểm tra hai bị cáo thu giữ 01 gói nylon trong chứa tinh thể rắn màu trắng được niêm phong. Qua giám định là loại Methamphetamine, trọng lượng 0,1548 gam. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nhưng không mang tính có tổ chức, không có sự câu kết chặt chẽ, phân công vai trò cụ thể nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Các bị cáo thống nhất cùng nhau mua ma túy nhằm mục đích sử dụng là Methamphetamine, trọng lượng 0,1548 gam nên phải chịu trách nhiệm chung. Nên Hội đồng xét xử kết luận các bị cáo Vương Đức H và Trần Thanh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố đối với hành vi của bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Đối với bị cáo H là người có vai trò chính, bị cáo là người rủ bị cáo D mua ma túy, người sử dụng phương tiện chở bị cáo D, người đưa tiền để D mua ma túy sử dụng cần xử lý nghiêm khắc hơn bị cáo D; Đối với bị cáo D là người nhận tiền từ bị cáo H, trực tiếp đi mua ma túy để sử dụng chung nên cần xử lý nghiêm.

[4]. Tuy nhiên, xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Trước khi phạm tội các bị ca chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo. Bị cáo D có ông Nội là liệt sỹ. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần được xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5]. Xử lý vật chứng:

Vt chứng là hàng cấm, vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy:

01 gói niêm phong số 68/GĐMT-PC09, ngày 30 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng có chữ ký của Giám định viên Phạm Thanh Trường Sơn, Trợ lý giám định Phùng Thúy An và Điều tra viên Vương Ngọc Nam;

Đi với tài sản không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho các bị cáo:

Trả lại cho bị cáo H: 01 điện thoại di động có chữ Nokia màu đen, sim số 0705.992.252, đã qua sử dụng;

Trả lại cho bị cáo D: 01 điện thoại di động có chữ ITEL màu xám, sim số 0762899197, đã qua sử dụng; Số tiền 300.000 đồng Đối với xe mô tô chưa xác định được chủ sở hữu cần giao lại Cơ quan điều tra Công an thành phố Sóc Trăng tiếp tục làm rõ chủ sở hữu để xử lý theo quy định pháp luật: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 94FF-0171, màu xanh, nhãn hiệu Halim, mang tên Võ Minh Cảnh, thu giữ của bị cáo H.

[6]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên, người bào chữa về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo H ở mức trung bình, bị cáo D ở mức khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp, tương xứng hành vi, tính chất, mức độ, hậu quả mà các bị cáo gây ra.

[7].Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc mỗi bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo;

Tuyên bố: Các bị cáo Vương Đức H và Trần Thanh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

1. Xử phạt bị cáo Vương Đức H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 5 năm 2020.

2. Xử phạt bị cáo Trần Thanh D 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 5 năm 2020.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 68/GĐMT-PC09, ngày 30 tháng 5 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng có chữ ký của Giám định viên Phạm Thanh Trường Sơn, Trợ lý giám định Phùng Thúy An và Điều tra viên Vương Ngọc Nam;

Trả lại cho bị cáo H: 01 điện thoại di động có chữ Nokia màu đen, sim số 0705.992.252, đã qua sử dụng;

Trả lại cho bị cáo D: 01 điện thoại di động có chữ ITEL màu xám, sim số 0762899197, đã qua sử dụng; Số tiền 300.000 đồng Giao trả lại Cơ quan điều tra Công an thành phố Sóc Trăng tiếp tục làm rõ chủ sở hữu để xử lý theo quy định pháp luật: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 94FF-0171, màu xanh, nhãn hiệu Halim, mang tên Võ Minh Cảnh, thu giữ của bị cáo H.

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc mỗi bị cáo phải nộp là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng);

Báo cho các bị cáo được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về