Bản án 63/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG -TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 63/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2020/HSST ngày 29/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2020/HSST-QĐ ngày 14/5/2020 và thông báo mở lại phiên tòa số 58/2020/TB - TA ngày 25 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Chu Đại C, sinh năm: 1990; ĐKHKTT: Thôn D xã H, huyện Â, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Chu Phương N và bà Trần Thị Th; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; có vợ là Dương Thị L và 01 con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/02/2020, chuyển tạm giam từ ngày 05/02/2020 tại Trại giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa - Người làm chứng:

1. Anh Lê Đăng Đ, sinh năm 1978.

Nơi cư trú: Thôn P, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

2. Anh Nguyễn Hữu K, sinh năm 1980.

Nơi cư trú: Thôn P, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chu Đại C là người nghiện ma túy từ giữa năm 2019. Khoảng 22 giờ ngày 01/02/2020, C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Taurus, biển số 34P9 - 8815 đi ra khu công nghiệp Đ, phường T, thành phố Hải Dương tìm mua chất ma túy để sử dụng. Tại đây C gặp và mua của một người đàn ông (không rõ tên tuổi địa chỉ) 01 viên ma túy đã màu hồng một mặt có in hình chữ WY đường kính khoảng 0,5 cm và 01 gói ma túy kích thước khoảng (2 x2) cm với số tiền 300.000đ sau đó cất giấu trong túi áo khoác bên trái để tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày, khi C đi đến khu vực chân cầu Đ, phường V, thành phố Hải Dương thì bị tổ công tác của phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Hải Dương kết hợp cùng với Công an phường Việt Hòa thành phố Hải Dương trong khi làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang thu giữ trong túi áo khoác bên trái C 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa Methaphetamine và 01 viên nén màu hồng là ma túy tổng hợp, 01 xe mô tô Taurus, biển số 34P9 - 8815 và 01 chiếc điện thoại Samsung A7. Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của anh Lê Đăng Đ và anh Nguyễn Hữu K.

Ti Kết luận giám định số 102/KLGĐ- PC09 ngày 04/2/2020, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận:

5.1. Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì gi thu của Chu Đại C gửi đến giám định khối lượng 0,189g (Không phẩy một trăm tám mươi chin gam) là ma túy, loại Methamphetamine.

5.2. 01 (một) viên nén màu hồng niêm phong trong phong bì ghi thu của Chu Đại C gửi đến giám định có khối lượng 0,096 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn trả đối tượng giám định gồm:

- Trả phần 5.1: 0,132g (Không phẩy một trăm ba mươi hai gam), Methamphetamine.

- Trả phấn 5.2: 0,061g (Không phẩy không trăm sáu mươi mốt gam), Methamphetamine.

Toàn bộ đối tượng giám định được hoàn lại trong phong bì niêm phong số: 102/KLGĐ – PC 09. Tại Cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 29/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo Chu Đại C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Chu Đại C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Chu Đại C từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 02/02/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,193 gam Methaphetamine hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 102/KLGĐ-PC09. Trả lại bị cáo chiếc xe mô tô TAURUS SR, màu đỏ đen đeo biển kiểm soát 34P9 - 8815 và 01 chiếc điện thoại Samsung A7 bên trong có gắn sim.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai của bị cáo Chu Đại C tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 01/02/2020 tại khu chân cầu Đ, phường V, thành phố Hải Dương; Chu Đại C đang cất giấu trái phép trong túi áo khoác 01 viên ma túy đá màu hồng một mặt có in hình chữ WY đường kính khoảng 0,5 cm và 01 gói ma túy đá kích thước khoảng (2 x2) cm để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm sản xuất, quản lý và sử dụng nhưng vì mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt biết tôn trọng, chấp hành pháp luật và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3].Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội; bị cáo có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì; Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng ba; huy hiệu 30 năm tuổi đảng; mẹ đẻ được Nhà nước tặng kỉ niệm chương vì sự nghiệp nông nghiệp và phát triển nông thôn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: Đối với 0,193 gam Methaphetamine hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 102/KLGĐ - PC09 có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương là chất cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô TAURUS SR, màu đỏ đen biển kiểm soát 34P9 - 8815, bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy về sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe đó là của bị cáo mua của ông Phạm Quang D ở Quang Minh, Gia Lộc, Hải Dương vào năm 2016 với giá 7.000.000đ, khi mua có giấy tờ đăng ký xe nhưng bị cáo đã làm mất. Kết quả tra cứu xe không nằm trong giữ liệu vật chứng, nên xác định chiếc xe trên là của bị cáo, bị cáo không cất giấu ma túy trên xe do vậy cần trả lại chiếc xe trên cho bị cáo.

Đối với chiếc điện thoại Samsung A7 bên trong có gắn sim bị cáo không sử dụng để liên hệ mua ma túy nên trả lại bị cáo chiếc điện thoại nêu trên.

[6]. Về án phí: Bị cáo bị kết án có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7]. Về vấn đề khác: Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo do không làm rõ được họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

[8]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Chu Đại C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Chu Đại C 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 02/02/2020.

[3]. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,193 gam Methaphetamine hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 102/KLGĐ - PC09 có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương.

Trả lại bị cáo Chu Đại C chiếc xe moto kiểu dáng TAURUS SR, màu đỏ đen biển kiểm soát 34P9 - 8815 và 01 chiếc điện thoại Samsung A7 bên trong có gắn sim (Điện thoại và xe máy không kiểm tra chất lượng bên trong) Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Hải Dương và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 07/5/2020.

[4]. Về án phí: Buộc bị cáo Chu Đại C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về