Bản án 63/2020/HS-ST ngày 17/07/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 63/2020/HS-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/Trương Nhâm B; sinh năm: 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: đường T, Phường C, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trương Văn H (chết) và bà: Võ Thị T; tiền án: Không; tiền sự: 01 (ngày 04/3/2018 bị Tòa án nhân dân Quận 3 quyết định xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 21 tháng theo Quyết định số 47/2018/QĐ-TA); nhân thân: Ngày 09/8/2010 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 3 quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 59/QĐ- UBND, ngày 20/11/2013 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 3 quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 59/QĐ-UBND; bị bắt tạm giam ngày: 10/02/2020.

2/Lưu Văn H1; sinh năm: 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: đường C, Phường H, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lưu Văn H1 và bà: Phạm Thị D; tiền án: Không; tiền sự: 02 (ngày 08/6/2016 bị Chủ tịch Ủy ban ban nhân dân Phường 11 Quận 3 quyết định giáo dục tại phường với thời hạn 06 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 83/QĐ-UBND, ngày 10/10/2017 bị Tòa án nhân dân Quận 3 quyết định xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng theo Quyết định số 121/QĐ-TA); nhân thân:

Ngày 05/4/2013 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 194/2013/HSPT; bị bắt giữ ngày: 05/02/2020 đến ngày 06/02/2020 được trả tự do; bị bắt tạm giam ngày: 10/02/2020.

(Các bị cáo có mặt).

- Bị hại:

Ông Trần Nguyễn Minh T – Sinh năm: 1990 (vắng mặt). Địa chỉ: đường C, Phường P, Quận D, TP.HCM.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Lưu Văn H1 – Sinh năm: 1966 (có mặt).

Địa chỉ: đường C, Phường H, Quận B, TP.HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 05/02/2020, Trương Nhâm B rủ Lưu Văn H1 đi cướp giật tài sản, H đồng ý. Khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, H điều khiển xe môtô gắn biển số 51X8-6786 đến đầu hẻm 79 đường Trần Văn Đang, Phường 9, Quận 3 để chở B rồi lưu thông trên nhiều tuyến đường tìm người có tài sản để cướp giật. Đến khoảng 21 giờ 45 phút, khi cả hai đi đến trước nhà số 595/33 đường Cách Mạng Tháng Tám, Phường 15, Quận 10, thì cả hai nhìn thấy anh Trần Nguyễn Minh T đang ngồi trước nhà sử dụng 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S9+. H điều khiển xe môtô áp sát trước mặt anh T, để B ngồi sau dùng tay phải giật chiếc điện thoại trên tay anh T rồi cả hai tăng ga tẩu thoát (hành vi trên đã được camera ghi hình lại). Khi chạy đến trước nhà số 595/15B đương Cách Mạng Tháng Tám, Phường 15, Quận 10, H va chạm với 01 xe môtô của người đi đường nên té ngã làm rơi chiếc điện thoại của anh T xuống đường. Lúc này, anh T tri hô và đuổi theo bắt giữ H cùng phương tiện và vật chứng, giao cho Công an Phường 15, Quận 10 xử lý, còn B chạy bộ tẩu thoát. Vụ việc được Công an Phường 15, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển hồ sơ cùng đối tượng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S9+ màu đen. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trả lại tài sản cho anh T. Nhận lại tài sản, anh T không yêu cầu bồi thường và cam kết không có thắc mắc, khiếu nại gì khác. Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 306/KL-ĐGTS ngày 27/4/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S9+, màu đen có giá 6.500.000 đồng.

Trên cơ sở thông tin của Lưu Văn H1 cung cấp, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã tiến hành truy xét, bắt tạm giam và quyết định khởi tố điều tra đối với Lưu Văn H1, Trương Nhâm B về hành vi “Cướp giật tài sản”.

Quá trình điều tra, Trương Nhâm B và Lưu Văn H1 khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Đối với 01 chiếc xe môtô hiệu Yamaha Sirius. Qua xác minh, biển số xe là 51F1-475.72, chiếc xe trên do ông Lưu Văn H đứng tên chủ sở hữu. Ông H cho biết, chiếc xe trên ông H cho H1 mượn để làm phương tiện đi lại. Việc H1 sử dụng chiếc xe đi cướp giật tài sản ông H không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 trả lại tài sản cho ông H.

Đối với 01 biển số 51X8-6786, H1 mua của người bán phế liệu (không rõ lai lịch, địa chỉ) gắn vào chiếc xe môtô trên; hiện Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Ngoài ra đối với 01 USB ghi nhận hình ảnh B và H1 thực hiện hành vi cướp giật tài sản của anh T (lưu theo hồ sơ).

Tại Cáo trạng truy tố số 60/CT-VKS ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Trương Nhâm B, Lưu Văn H1 về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án; về phía người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vẫn giữ nguyên lời khai như lời khai tại cơ quan điều tra.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo H tích cực hợp tác cơ quan điều tra phát hiện tội phạm) của từng bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s, h, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) tương ứng đối với từng bị cáo, xử phạt các bị cáo:

Trương Nhâm B từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Lưu Văn H1 từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về áp dụng biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của các bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Không có ý kiến gì.

- Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, các bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà các bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của các bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, biên bản nhận dạng, nội dung ghi hình camera, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định các bị cáo Trương Nhâm B, Lưu Văn H1 thống nhất ý chí hành động thực hiện hành vi dùng thủ đoạn nguy hiểm là sử dụng xe môtô có phân khối lớn, lợi dụng sự sơ hở của người khác mà nhanh chóng công khai cướp giật tài sản của bị hại ngay trên đường phố, nên các bị cáo bị truy tố và xét xử theo quy định tại điềm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Trong vụ án này, các bị cáo là đồng phạm thông mưu đơn giản, trong đó: Bị cáo B là người khởi xướng, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, bị cáo H là đồng phạm giúp sức: Là người cung cấp phương tiện, chở đồng bọn chiếm đoạt tài sản và tẩu thoát; ngoài ra các bị cáo còn có nhân thân xấu, cụ thể: Đối với bị cáo B: Ngày 09/8/2010 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 3 quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 59/QĐ-UBND, ngày 20/11/2013 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 3 quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 59/QĐ-UBND, ngày 04/3/2018 bị Tòa án nhân dân Quận 3 quyết định xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 21 tháng theo Quyết định số 47/2018/QĐ- TA; đối với bị cáo H: Ngày 05/4/2013 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 194/2013/HSPT (đã xóa án tích), ngày 08/6/2016 bị Chủ tịch Ủy ban ban nhân dân Phường 11 Quận 3 quyết định giáo dục tại Phường với thời hạn 06 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 83/QĐ-UBND, ngày 10/10/2017 bị Tòa án nhân dân Quận 3 quyết định xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng theo Quyết định số 121/QĐ-TA. Do vậy hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục các bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo H tích cực hợp tác cơ quan điều tra phát hiện tội phạm; do vậy Hội đồng xét xử tương ứng áp dụng điểm s, h, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với từng bị cáo; ngoài ra miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác: Về trách nhiệm dân sự: Không có gì để Tòa giải quyết. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 biển số 51X8 – 6786, lưu hành không hợp pháp; vậy căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu, tiêu hủy.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Trương Nhâm B, Lưu Văn H1 phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trương Nhâm B;

Xử phạt bị cáo Trương Nhâm B 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/02/2020.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s, t khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lưu Văn H1;

Xử phạt bị cáo Lưu Văn H1 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/02/2020, trừ đi thời hạn bị bắt giữ từ ngày 05/02/2020 đến ngày 06/02/2020.

- Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu, tiêu hủy: 01 biển số 51X8 – 6786.

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/7/2020 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Mỗi bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thị hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HS-ST ngày 17/07/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:63/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về