Bản án 63/2020/HS-ST ngày 12/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 63/2020/HS-ST NGÀY 12/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 74/2020/HSST ngày 15/5/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2020/QĐXXST-HS ngày 28/5/2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Phạm Văn N, sinh năm 1987 tại phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú: số nhà M, ngõ MB, đường Nguyễn Công H, phường Trần Nguyên H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Phạm Đình T và bà Nguyễn Thị Hiền L; Vợ: Nguyễn Thị Huyền T và có 03 con; Tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Quốc H, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Số B, đường Nguyễn Văn C, phường Hoàng Văn T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang (có mặt).

2. Chị Phạm Thị H, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Tổ H, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

- Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn K, xã M, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn K, xã M, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phm Văn N làm nghề lái xe taxi, quá trình chở khách hàng có quen biết với Phạm Thị H- sinh năm 1989, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ H, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; chỗ ở: Chung cư Q, tổ V, phường Hoàng Văn T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. N khai: Khoảng 10 giờ ngày 20/12/2019, N đang đỗ xe ô tô nhãn hiệu KIA, màu sơn xanh, biển kiểm soát 98A- 037.78 để chờ khách ở khu vực cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang thì H điện thoại từ thuê bao số 0888.211.989 gọi điện cho N vào điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu trắng, số Imei: 355025060656004/01 gắn sim thuê bao số 0986.118.087 báo “Có hàng mới về, có lấy không”, N hiểu ý H là có ma túy, H hỏi N có mua không. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên N bảo H bán cho khoảng từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng tiền ma túy tổng hợp, H đồng ý và hẹn N đến khu vực cây xăng đầu cầu M, thuộc đường Thân Nhân T, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang để giao hàng. N điều khiển xe taxi đến điểm hẹn thì thấy H đang ngồi chờ trên một xe taxi, màu sơn xanh của hãng Mai Linh, N không nhớ biển kiểm soát. Thấy N đến, H xuống xe taxi, mở cửa xe ô tô của N, ngồi vào ghế phụ cạnh ghế lái, H cầm trên tay 01 lọ nhựa thân màu trắng có nắp màu xanh, đặt lên ghế phụ chỗ H ngồi và bảo “Đồ chị để trong hộp”, N hiểu ý là H để ma túy trong hộp. N nói với H là chưa có tiền trả thì H đồng ý, nói là ma túy chất lượng hơi kém nên H bán rẻ cho N và cho N nợ tiền, hết bao nhiêu tiền sẽ báo lại sau. Sau đó, H lên xe taxi đi đâu N không biết. Khoảng 11 giờ ngày 20/12/2019, N điều khiển xe ô tô đến đường Quốc lộ 37, thuộc địa phận thôn D, thị trấn B, huyện V, tỉnh Bắc Giang thì dừng lại, cầm theo lọ nhựa vừa mua của H xuống xe định cất giấu vào cốp xe ô tô thì bị Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an tỉnh Bắc Giang phát hiện, khống chế, bắt giữ. Quá trình bắt giữ, N làm rơi lọ nhựa trên xuống đất cạnh chỗ N đứng. Sau khi nghe lực lượng Công an giải thích, N đã tự giác nhặt lọ nhựa lên giao nộp. Qua kiểm tra, phát hiện trong lọ nhựa màu xanh N giao nộp có 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa có viền màu đỏ, bên trong chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp và 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa bên trong chứa các viên nén hình đầu lâu màu xám nghi là ma túy tổng hợp. Lực lượng Công an đã giao cho N tự bảo quản lọ nhựa nghi có chứa ma túy, mời người chứng kiến, đưa N cùng toàn bộ số vật chứng thu giữ về trụ sở Công an thị trấn B, huyện V, tỉnh Bắc Giang để làm việc, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong số ma túy trên, ngoài ra còn thu giữ xe ô tô Kia, 01 ví da bên trong có 01 giấy phép lái xe, chứng minh nhân dân mang tên Phạm Văn N, giấy phép lái xe tên Lê Xuân V, đăng ký xe ô tô, 03 điện thoại di động. Căn cứ lời khai của Phạm Văn N, ngày 20/12/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Thị H tại Chung cư Q, tổ V, phường Hoàng Văn T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; kết quả không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc với Phạm Thị H, H khai có quen biết Phạm Văn N do N làm lái xe taxi, thường chở H đi công việc. Ngày 20/12/2019, N có dùng số thuê bao 0986.118.087 gọi điện cho H vào thuê bao số 0888.211.989 bảo muốn trả H chìa khóa do H nhờ N đánh hộ trước đó nhưng H không có nhà nên hẹn N hôm khác sẽ lấy, ngày 20/12/2019 H không gặp N và không bán ma túy cho N như N khai. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho Phạm Thị H và Phạm Văn N đối chất, kết quả các bên giữ nguyên lời khai. Ngoài lời khai của N ra, không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh việc H bán ma túy cho N nên không có căn cứ để xử lý đối với Phạm Thị H.

Ti kết luận giám định số 2059/KL-KTHS ngày 23/12/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

Trong 01 (một) hộp giấy dạng khối hình hộp chữ nhật, trên hộp giấy có chữ “SCB” màu xanh được dán kín bằng giấy màu trắng có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định:

Trong 01 (một) lọ nhựa hình trụ thân màu trắng, có nắp đậy màu xanh:

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền màu đỏ là chất ma túy Ketamine, có khối lượng 35,118 gam.

- 51 (năm mươi mốt) viên nén hình đầu lâu màu xám đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa đều là chất ma túy MDMA (3,4-Methylenedioxymethamphetamine), có khối lượng 20,204 gam. Tại bản cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 13/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đã truy tố Phạm Văn N ra trước Tòa án nhân dân huyện Việt Yên để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn N thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có trong hồ sơ vụ án, bị cáo thừa nhận số lượng chất ma túy 55, 322 gam Ketamine và MDMA bị thu giữ khi bị bắt là của bị cáo do bị cáo mua để sử dụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Quốc H khai: Anh H là anh vợ của bị cáo, anh H có cho bị cáo mượn chiếc xe ô tô Kia biển kiểm soát 98A-037.78 để làm ăn, không biết bị cáo phạm tội về ma túy. Anh H đã được trả lại chiếc xe ô tô và không có yêu cầu, đề nghị gì. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm h khoản 3 và khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015; Xử phạt bị cáo Phạm Văn N từ 10 năm tù đến 10 năm 06 tháng tù; Phạt bổ sung từ 05 đến 10 triệu đồng. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên là hợp pháp, không có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn N thừa nhận đã mua 35,118 gam chất ma túy Ketamine và 20,204 gam chất ma túy MDMA để sử dụng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng của vụ án, kết luận giám định và lời khai của người chứng kiến, các tài liệu khác thu thập được, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ ngày 20/12/2020, tại đường Quốc lộ 37, thuộc địa phận thôn D, thị trấn B, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an tỉnh Bắc Giang phát hiện, bắt quả tang Phạm Văn N đang có hành vi tàng trữ trái phép 35,118 gam chất ma túy Ketamine và 20,204 gam chất ma túy MDMA (3,4- Methylenedioxymethamphetamine), với mục đích để sử dụng.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo mua chất ma túy mục đích để sử dụng với số lượng khối lượng là 55,322 gam MDMA và Ketamine, nên Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, vi phạm vào điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ chất ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành, sử dụng trái phép chất ma túy là một trong những tệ nạn xã hội cần bài trừ bởi nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới các hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp tài sản, giết người..., là nguyên nhân dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng rất xấu tới đời sống xã hội, do vậy cần xử lý nghiêm bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt tương xứng, phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt vì chưa bị kết án, chưa bị xử lý hành chính lần nào.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định ở khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết "Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo có thời gian thực hiện nghĩa vụ vũ trang được tặng giấy khen, mẹ đẻ của bị cáo có thành tích xuất sắc trong công tác được Bằng khen, ông bà nội của bị cáo có thành tích xuất sắc trong công tác được tặng Bằng khen, Huân chương kháng chiến", các tình tiết giảm nhẹ này được áp dụng điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất vụ án, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý với số lượng chát ma tuý lớn nên cần áp dụng hình phạt phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Số lượng chất ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 chiếc điện thoại Samsung màu trắng bị cáo sử dụng vào việc thực hiện tội phạm cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

- 02 chiếc điện thoại khác, 01 ví da, giấy phép lái xe, chứng minh nhân dân không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại điện thoại để đảm bảo thi hành án.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo và người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Căn cứ điểm h khoản 3 và khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phạm Văn N 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ: ngày 20/12/2019.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Văn N 10 triệu đồng sung quỹ nhà nước.

[2] Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Phạm Văn N: 01 ví da màu nâu, mặt ngoài có chữ "LEATHER"; 01 giấy phép lái xe mang tên Phạm Văn N; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phạm Văn N; 01 chiếc điện thoại Iphone, màu vàng, số imei: 353264074847174; 01 điện thoại Samsung, màu trắng, số imei: 354204075 183798/01 và 354205075183795/01, nhưng tạm giữ lại điện thoại để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại Samsung, màu trắng, số imei: 355025060656004/01.

- Tịch thu tiêu hủy số lượng chất ma túy còn lại sau giám định gồm 35,033 gam chất ma túy Ketamine và 19,697 gam chất ma túy MDMA được niêm phong trong 01 hộp giấy dạng khối hình hộp chữ nhật, trên hộp giấy có chữ "SCB" màu xanh được dán kín bằng giấy màu trắng có ký hiệu "QT".

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Bị cáo Phạm Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Báo cho bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HS-ST ngày 12/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về