TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 63/2019/HSST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2019/TLST- HS ngày 05 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Thế V - Sinh năm: 1988; Nơi cư trú: Đội 12, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc kinh; Tôn giáo: Đạo thiên chúa; Trình độ văn hóa: 9/12; Bố đẻ: Trần Nguyễn Văn L, sinh năm 1967; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1969; Vợ: Trần Thị Q, sinh năm: 1991; Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2018.
Nhân thân: Ngày 22/6/2010 bị TAND thành phố Nam Định xử phạt 33 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tiền án, tiền sự: Không Bị caó đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Anh Hoàng Văn L – sinh năm 1976 (Có mặt) Địa chỉ: Xóm 6, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Anh Hoàng Văn L nhận phun cát san lấp nền nhà cho ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1963 ở xóm 2, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định. Ngày 15/6/2019 anh L đem 03 giàn máy hút đẩy cát (có tác dụng tăng áp lực bơm) đến lắp đặt ở ven trục đường dong xóm dọc sông Phú Hùng thuộc tổ dân phố Tây Hồ, thị trấn Ninh Cường, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định để phục vụ việc phun cát. Khi có thuyền cát đến thì anh L cho hệ thống nối vào máy hút cát tại thuyền để hoạt động, khi chưa có thuyền cát đến thì anh L vẫn để hệ thống ống và 3 giàn máy tại chỗ để chờ thuyền cát khác đến. Sáng ngày 17/6/2019 Nguyễn Thế V điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BS:18M1-0463 đi lang thang trên các tuyến đường thuộc khu vực Thị trấn Ninh Cường, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định mục đích tìm tài sản để lấy trộm. Khi đi vào đường dong xóm dọc sông Phú Hùng thuộc tổ dân phố Tây Hồ, thị trấn Ninh Cường, huyện Trực Ninh thì V nhìn thấy một giàn máy hút đẩy cát của anh L cùng ống dẫn vẫn đang nối với nhau để ở ven đường bên trái đang chờ thuyền cát chở về để phun cát san lấp công trình xây dựng. V quan sát thấy khu vực máy hút đẩy cát vắng người qua lại, V nảy sinh ý định lấy trộm dàn máy bơm hút đẩy cát để đem bán lấy tiền tiêu. V dựng xe ở đường rồi tiến gần đến ngồi lên giàn máy quan sát xung quanh, mục đích xem có người trông coi không và để cho những người đi qua nghĩ V là chủ sở hữu dàn máy hút đẩy cát. Thấy vắng người qua lại, V quan sát tìm dụng cụ dùng để tháo mối buộc dây thép, thấy dưới gầm dàn máy có 01 thanh sắt phi 6 dài khoảng 10cm, V lấy thanh sắt phi 6 tháo các mối dây thép buộc đường ống dẫn với đầu hút, đẩy của dàn máy. Sau khi tháo xong đường ống dẫn cát ra khỏi dàn máy, V kéo dàn máy từ lề cỏ lên mặt đường bê tông, buộc tay lái của dàn máy vào giá đèo hàng phía sau xe mô tô của mình, rồi điều khiển xe mô tô kéo theo xe ba bánh chở dàn máy hút đẩy cát đi đến cửa hàng thu mua phế liệu của chị Phạm Thị H - SN: 1969 ở xóm 13, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định, bán cho chị H lấy số tiền 2.250.000 đồng (Hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) tiêu sài cá nhân hết. Đến sáng ngày 18/6/2019 anh L ra kiểm tra phát hiện mất một giàn máy hút đẩy cát nên đã trình báo Công an thị trấn Ninh Cường.
Sau khi mua dàn máy hút đẩy cát từ V, chị Phạm Thị H đã bán dàn máy hút đẩy cát cho chị Đào Thị T - SN: 1979 ở thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định (cũng là người thu mua sắt phế liệu), chị T bán cho một số cơ sở nhà máy thép ở thành phố Hải Phòng. Do vậy, CQĐT Công an huyện không xác minh thu hồi được. Vật chứng thu giữ: Quá trình điều tra CQĐT Công an huyện Trực Ninh đã tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave RS BS: 18M1-0463 màu cam V dùng làm phương tiện để đi lấy trộm dàn máy hút đẩy cát.
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trực Ninh định giá kết luận: 01 máy nổ Đông Phong 24KW; đầu sên hút, đẩy cát gắn trên xe ba bánh tự chế có giá trị tại thời điểm bị mất là: 7.423.440đ (Bảy triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi đồng).
Đối với chiếc xe mô tô BS: 18M1-0463 màu cam V dùng làm phương tiện để đi lấy trộm dàn máy hút đẩy cát là tài sản chung của vợ chồng V, chị Trần Thị Q (là vợ V) không biết V dùng xe mô tô đi trộm cắp tài sản, CQĐT Công an huyện Trực Ninh đã trả lại cho gia đình V.
Đối với việc chị Phạm Thị H và chị Đào Thị T mua 01 bộ máy hút đẩy cát gắn trên xe ba bánh tự chế của Nguyễn Thế V, chị H và chị T không biết bộ máy hút đẩy cát do V phạm tội mà có nên không phạm tội.
Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ án xảy ra Nguyễn Thế V đã bồi thường cho gia đình anh Hoàng Văn L số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Anh L đã nhận đủ số tiền và có đơn đề nghị cơ quan pháp luật xem xét miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho V và cam kết không có thắc mắc khiếu kiện gì.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Thế V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Cáo trạng số 58/KSĐT ngày 05 tháng 11 năm 2019, VKSND huyện Trực Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.
Tại phiên toà:
Bị cáo Nguyễn Thế V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Bị cáo thực sự ăn năn hối cải, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bị hại: Anh Hoàng Văn L đã nhận đủ số tiền bồi thường là 10.000.000 đồng, anh L không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm. Đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện VKSND huyện Trực Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế V phạm tội “Trộm cắp tài sản”, căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS, xử phạt: Nguyễn Thế V từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng.
Về trách nhiệm dân sự không đặt ra. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Thế V đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Trực Ninh, Điều tra viên, VKSND huyện Trực Ninh, KSV trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như; Biên bản ghi lời khai của người bị hại; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng; Biên bản thu giữ vật chứng; Kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 17/6/2019 Nguyễn Thế V đã có hành vi lợi dụng sơ hở lén lút trộm cắp chiếc 01 bộ máy hút đẩy cát gắn trên xe ba bánh tự chế trị giá 7.423.440đ (Bảy triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn bốn trăm bốn mươi đồng) của anh Hoàng Văn L để ở vệ đường dong xóm sông Phú Hùng thuộc tổ dân phố Tây Hồ, thị trấn Ninh Cường, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS như Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh đã truy tố đối với bị cáo.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường cho người bị hại, gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo có xác nhận của chính quyền địa phương xã T; gia đình bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo và tại phiên tòa đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.
[4] Về hình phạt:
Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và đề nghị của Viện kiểm sát. HĐXX xét thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy về hình phạt chưa cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đảm bảo việc giáo dục cải tạo bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: HĐXX xét thấy, bị cáo là lao động chính, hoàn cảnh gia đình khó khăn, xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm Dân sự: Người bị hại là anh Hoàng Văn L đã nhận đủ số tiền bồi thường là 10.000.000 đồng, anh L không yêu cầu bồi thường khoản nào khác nên không xem xét giải quyết.
[7] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế V 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27 tháng 11 năm 2019).
Giao bị cáo Nguyễn Thế V cho chính quyền địa phương xã N, huyện N, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
2. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Nguyễn Thế V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày; bị cáo Nguyễn Thế V có quyền kháng cáo kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án.
Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.
Bản án 63/2019/HSST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 63/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về