Bản án 63/2017/DS-ST ngày 30/08/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

 

BẢN ÁN 63/2017/DS-ST NGÀY 30/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 159/2017/TLST-DS ngày 29 tháng 3 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2017/QĐST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hồ Thị L

Địa chỉ: Thôn Phước Lộc, xã Phước Đồng, Nha Trang.

Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Vũ Thị Q

Địa chỉ: Đường La Văn Cầu, thôn Phước Lộc, xã Phước Đồng, Nha Trang.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 22/02/2017, bản tự khai ngày 03/5/2017, nguyên đơn – bà Hồ Thị L trình bày: Ngày 23/11/2015, bà Vũ Thị Q có vay của bà số tiền tổng cộng là 36.600.000đ (Ba mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng) để làm vốn kinh doanh làm ăn và có viết giấy cam kết, thời hạn vay là 05 tháng, không thỏa thuận lãi vay.

Từ khi đến hạn trả nợ, bà L đã nhiều lần yêu cầu bà Q trả nợ nhưng bà Q cố tình né tránh và không trả nợ. Nay bà L yêu cầu bà Q trả cho bà số tiền là 36.600.000đ (Ba mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng), trả một lần, không tính lãi.

Tại bản tự khai ngày 30/6/2017, ngày 10/7/2017 và biên bản hòa giải ngày 28/7/2017, bà Hồ Thị L thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà Vũ Thị Q trả cho bà số tiền tổng cộng là 33.600.000đ (Ba mươi ba triệu sáu trăm nghìn đồng).

* Tại bản tự khai ngày 26/6/2017 và ngày 21/7/2017, bị đơn bà Vũ Thị Q trình bày: Bà thừa nhận có nhận của bà Hồ Thị L số tiền 36.600.000đ (Ba mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng) để đầu tư vào Công ty Phúc Gia Bảo 868 kiếm lời. Bà khẳng định tất cả số tiền mà bà L đưa cho bà là để đầu tư vào Công ty Phúc Gia Bảo 868 chứ không phải bà vay của bà L sử dụng vào mục đích riêng tư.

Ngày 26/6/2017, bà Vũ Thị Q có đơn xin xét xử vắng mặt, bà Q đề nghị được vắng mặt trong các buổi hòa giải cũng như các phiên xét xử, bà Q đồng ý với mọi phán quyết của Tòa án.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền 33.600.000đ, trả một lần và không tính lãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng:

1.1. Về thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp về dân sự, bị đơn có địa chỉ cư trú tại đường La Văn Cầu, thôn Phước Lộc, xã Phước Đồng, Nha Trang, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

1.2. Về quan hệ tranh chấp và thời hiệu khởi kiện: Quan hệ tranh chấp được xác lập bằng giấy cam kết vào ngày 23/11/2015 giữa bà Hồ Thị L và bà Vũ Thị Q, thời hạn vay là 05 tháng. Đây là quan hệ tranh chấp về hợp đồng dân sự, thời hiệu khởi kiện là 03 năm theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015. Đến ngày 22/02/2017, bà Hồ Thị L khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện vẫn còn và xác định đây là tranh chấp về hợp đồng vay tài sản theo điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015.

1.3. Về trình tự thủ tục:

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 04/7/2017, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang ra Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số 247/2017/QĐ-CCCC về việc yêu cầu đương sự cung cấp tên đầy đủ chính xác của Công ty Phúc Gia Bảo 868, địa chỉ công ty, người đại diện công ty, giấy phép đăng ký kinh doanh của công ty, nhưng bà Hồ Thị L và bà Vũ Thị Q không cung cấp được. Vì vây, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung được quy định tại điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Về nội dung:

2.1. Giữa bà Hồ Thị L và bà Vũ Thị Q có mối quan hệ quen biết, bà Q vay của bà L số tiền 36.600.000đ. Ngày 23/11/2015, bà Q viết giấy cam kết, ấn định thời hạn vay là 05 tháng, không thỏa thuận lãi suất. Khi vay tiền, bà Q không thế chấp tài sản, đồ vật gì.

2.2. Đây là giao dịch vay tài sản là tiền thuộc hợp đồng dân sự do hai bên đương sự tự nguyện thực hiện. Khoản vay 36.600.000đ được giao kết bằng văn bản và được lập thành văn bản là giấy cam kết, có ấn định thời hạn vay. Khi vay, bên vay không bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Người ký kết hợp đồng vay là bà Q là người có đủ năng lực hành vi dân sự nên giao dịch này phù hợp với quy định của pháp luật dân sự.

2.3. Giữa hai bên có giao kết hợp đồng, có sự thỏa thuận khi giao kết. Tuy nhiên, khi đến thời hạn thanh toán, bà Q đã không thanh toán cho bà L số tiền như đã thỏa thuận. Bà L đã nhiều lần yêu cầu bà Q trả nợ nhưng bà Q không thực hiện việc trả nợ như đã cam kết. Bà L khởi kiện yêu cầu bà Q trả lại 36.600.000đ, sau này bà L chỉ yêu cầu 33.600.000đ là phù hợp với quy định tại Điều 463 và 466 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2.4. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà L yêu cầu bà Q trả lại số tiền 33.600.000đ một lần theo giấy cam kết ngày 23/11/2015. Bà Q đã mượn tài sản là tiền nhưng vi phạm về nghĩa vụ trả lại tài sản. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên cần chấp nhận, buộc bà Vũ Thị Q phải trả cho bà Hồ Thị L số tiền nợ 33.600.000 đồng (Ba mươi ba triệu sáu trăm nghìn đồng) là phù hợp với quy định của pháp luật.

2.5. Về án phí:

- Bà Vũ Thị Q phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là 33.600.000đ x 5% = 1.680.000đồng (Một triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng).

- Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho bà Hồ Thị L.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả lại số tiền 33.600.000đ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 385, 398, 463, 466, 468 và 470 của Bộ luật dân sự 2015.

- Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 96, 147, 185, 227, 228, 266 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Vũ Thị Q phải trả cho bà Hồ Thị L số tiền nợ 33.600.000 đồng (Ba mươi ba triệu sáu trăm nghìn đồng).

2. Án phí:

- Bà Vũ Thị Q phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là 33.600.000đ x 5% = 1.680.000đồng (Một triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng).

- Hoàn lại cho bà Hồ Thị L số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AA/2016/0006339 ngày 28/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang.

* Quy định: Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2017/DS-ST ngày 30/08/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:63/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về