Bản án 631/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 631/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 633/2019/HSST, ngày 11 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 650/2019/QĐXXST-HS ngày 12/11/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Trung D, sinh ngày 23/03/1977; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ , phường H, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Đỗ Xuân L, sinh năm 1950 và con bà: Vũ Thị S, sinh năm 1950; Gia đình có 4 anh chị em, bị can là con thứ ba; Có vợ là Nguyễn Thị Q, sinh năm 1983 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2008.

Tiền án: Tại bản án số 333/2016/HSST ngày 11/11/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 36 tháng tù giam, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong án phạt tù, ra trại ngày 01/02/2019.

Tiền sự: Không Nhân thân: + Tại bản án số 187/2005/HSST ngày 17/8/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, bị xử phạt 03 năm từ giam về tội “ Phá hủy công trình quan trọng an ninh quốc gia”. Chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 01/02/2008. Nộp án phí ngày 20/4/2009.

+ Tại Quyết định số 78041/QĐ-CT ngày 06/7/2011 của Ủy ban nhân dân thành phố Thái Nguyên bị đưa vào chữa bệnh, lao động, học tập tại Trung tâm chữa bệnh – giáo dục – lao động xã hội thành phố Thái Nguyên trong thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 12/7/2013.

Hiện bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên từ ngày 17/9/2019 đến nay.

( Có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Quang T, sinh năm 1973 ( Vắng mặt tại phiên tòa) HKTT: Tổ , phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

2. Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1958 ( Vắng mặt tại phiên tòa) HKTT: Tổ 04, phường H, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 17 giờ 30 phút, ngày 17/9/2019, tổ công tác của Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành làm nhiệm vụ trên địa bàn Hoàng V T, thuộc tổ 20, phường Hoàng V T, thành phố Thái Nguyên phát hiện 01 nam giới có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người nam giới khai tên là: Đỗ Trung D. Quá trình kiểm tra, D tự giác giao nộp cho tổ công tác từ vành mũ lá D đang đội 01 gói giấy bạc màu trắng, kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng (D khai nhận là Heroine của D). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Trung D và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định pháp luật.

Tiến hành cân số chất màu trắng thu giữ được của Đỗ Trung D ngày 17/9/2019 có khối lượng 0,088 gam và lấy mẫu gửi giám định ký hiệu D1.

Tại bản Kết luận giám định số 1295/KL-HTHS ngày 25/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột mầu trắng trong phong bì ký hiệu D1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng là 0.088gam.

Tại cơ quan điều tra, Đỗ Trung D khai nhận: Khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 17/9/2019, D đi bộ một mình từ nhà D đến khu vực Cung thiếu nhi thành phố thuộc phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên với mục đích mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, D gặp và hỏi mua của một người đàn ông tên là “Hà” không quen biết, nhà ở phường T D, thành phố Thái Nguyên 01 gói Heroine với giá 100.000đồng (một trăm nghìn đồng). Sau khi mua được Heroine, D cất gói Heroine trên vào vành mũ lá D đang đội rồi đi bộ về tìm chỗ để sử dụng, khi D đến khu vực cổng khách sạn Thái Nguyên thuộc tổ 19, phường Hoàng V T, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và tiến hành niêm phong vật chứng như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 628/CT-VKSTPTN ngày 11/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phó Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Đỗ Trung D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm a, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; BLHS 2015 xử phạt bị cáo Đỗ Trung D từ 24 đến 30 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo D.

- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015 xử lý vật chứng theo quy định.

- Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo D phải nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận bị cáo D không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo D nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố Thái Nguyên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Hi 17 giờ 30 phút, ngày 17/9/2019, tại khu vực cổng khách sạn Thái Nguyên thuộc tổ 20, phường Hoàng V T, thành phố Thái Nguyên, Đỗ Trung D đang có hành vi tàng trữ 0,088 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo Đỗ Trung D đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 BLHS quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a, ...đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248,250,251...của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm ”.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân xấu, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cần áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo Đỗ Trung D 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[7] Vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu D1 (bên trong chứa ma túy). Mặt sau bì niêm phong có 02 hình dấu tròn của phòng KTHS – Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trương Đăng Tam, Phạm Anh Tuấn.

Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, biên bản giao nhận vật chứng số 66 ngày 11/11/2019 [8] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, D khai mua của một người đàn ông tên Hà không quen biết. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không xác định được danh tính, địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra làm rõ để xử lý.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào: Điểm a, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

1. Xử phạt Đỗ Trung D 18 (tháng tù) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 17/9/2019.

2. Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Đỗ Trung D 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 :

Tch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu D1 ( bên trong chứa ma túy).

Mặt sau bì niêm phong có 02 hình dấu tròn của phòng KTHS – Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trương Đăng Tam, Phạm Anh Tuấn.

Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, biên bản giao nhận vật chứng số 66 ngày 11/11/2019

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí buộc bị cáo Đỗ Trung D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 631/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:631/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về