Bản án 627/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 627/2020/HS-ST NGÀY 20/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 609/2020/TLST- HS ngày 23 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 641/2020/QĐXXST-HS ngày 04/11/2020 đối với bị cáo:

Vũ Văn K, sinh năm 1970, tại Hòa Bình. Tên gọi khác: Không.

Nơi từng đăng ký nhân khẩu thường trú: xã T (nay là xã C), huyện S, tỉnh B. Hiện nay: Không đăng ký thường trú;

Nơi ở hiện nay: Không có nơi ở nhất định;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Chức vụ, đảng phái, đoàn thể: Không.

Con ông Vũ Văn B (đã chết) và bà Phạm Thị C (đã chết). Gia đình bị cáo có 07 anh chị em. Bị cáo là con thứ 4 trong gia đình.

Bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Nguyễn Thị Q – Sinh năm 1974 và có 01 người con chung sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Ngày 20-4-2012 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 24 tháng. Chấp hành xong ngày 11-4-2014.

- Ngày 23-6-2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 24 tháng. Chấp hành xong ngày 23-6-2017.

Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 22/7/2020 chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa (Bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Vũ Văn K là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 07 giờ ngày 22-7-2020, bị cáo K đến khu vực khu công nghiệp Bàu Xéo thuộc huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai mua của 01 người đàn ông (chưa rõ lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp và 06 tép Heroin với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, bị cáo K cất giấu số ma túy nêu trên vào túi áo bên trái và điều khiển xe môtô biển số 60S1-7925 đi đến khu vực thuộc tổ 44, khu phố Vườn Dừa, phường Phước Tân, thành phố Biên Hòa thì bị Công an phường Phước Tân kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo Vũ Văn K đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (Ký hiệu M1) và 06 đoạn ống nhựa hàn kín bên trong chứa chất bột màu trắng (Ký hiệu M2) được niêm phong có chữ ký ghi rõ họ tên của Vũ Văn K và có hình dấu tròn đỏ Công an phường Phước Tân.

- 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) của K không liên quan đến việc phạm tội.

- 01 xe môtô biển số 60S1-7925 và 01 điện thoại di động hiệu NOKIA có số thuê bao 0865309543 là tài sản của chị Nguyễn Thị Q – sinh năm 1974 thường trú: tổ 21, khu phố P, phường T, thành phố H (sống chung như vợ chồng với K). Khi chị Q cho K mượn, không biết K dùng xe và điện thoại liên quan việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả xe và điện thoại cho chị Quyên.

Tại Bản kết luận giám định số: 1490/KLGĐ-PC09 ngày 29-7-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

- Mẫu tinh thể màu trắng được ký hiệu là (M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0475 gam, loại: Methamphetamine.

- Mẫu chất bột màu trắng được ký hiệu là (M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3220 gam, loại: Heroin (Heroine).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định.

Tại bản Cáo trạng số: 599/CT/VKSBH-HS ngày 14/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Vũ Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuýtheo quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Vũ Văn K từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù giam.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa tuyên tịch thu tiêu huỷ lượng ma túy còn lại sau giám định, tiếp tục tạm giữ số tiền 300.000đ để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thống nhất với bản cáo trạng và truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Trong thời gian tạm giam, bị cáo đã ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Trên cơ sở khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có cơ sở xác định: Vào khoảng 10 giờ ngày 22-7-2020, tại khu vực tổ 44, khu phố Vườn Dừa, phường Phước Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Vũ Văn K đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3220 gam Heroin và 0,0475 gam Methamphetamine thì bị bắt quả tang và xử lý theo quy định.

Xét thấy, hành vi của bị cáo như đã nêu trên, đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Từ những căn cứ trên, xét thấy cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân thành phố Biên Hòa đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

nh vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải. Nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ phần nào mức hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo biết tác hại của ma tuý, nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Ngoài ra, bị cáo đã từng bị áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng không lấy đó làm tu dưỡng rèn luyện, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội mà lại tiếp tục sử dụng ma tuý. Cụ thể, ngày 20-4-2012 bị cáo bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 24 tháng. Ngày 23-6-2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 24 tháng.

[6] Về hình phạt chính: Căn cứ tình chất mức độ hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân: Xét cần thiết phải áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 gói đã được niêm phong chứa ma tuý đã được hoàn lại sau khi giám định số 1490 ngày 29/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/10/2020).

- Tiếp tục tạm giữ 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) của bị cáo K để đảm bảo thi hành án.

- 01 xe môtô biển số 60S1-7925 và 01 điện thoại di động hiệu NOKIA có số thuê bao 0865309543 là tài sản của chị Nguyễn Thị Q – sinh năm 1974 thường trú: tổ 21, khu phố P, phường T, thành phố H (sống chung như vợ chồng với K). Khi chị Q cho K mượn, không biết K dùng xe và điện thoại liên quan việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả xe và điện thoại cho chị Q là đúng quy định pháp luật, nên không xem xét.

[9] Đối với người đã bán ma túy cho bị cáo K hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về tội danh, điểm, khoản, điều luật áp dụng, mức hình phạt phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Vũ Văn K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 22/7/2020.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ 01 gói đã được niêm phong chứa ma tuý đã được hoàn lại sau khi giám định số 1490 ngày 29/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/10/2020).

Tiếp tục tạm giữ 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) của bị cáo K để đảm bảo thi hành án.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Vũ Văn K phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 627/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:627/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về