Bản án 627/2019/HSST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 627/2019/HSST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 627/2019/HSST, ngày 08 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:

- Họ và tên: Lường Việt Đ; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

- Ngày, tháng, năm sinh: 09/12/1996.

- ĐKHKTT và nơi ở: Xóm K, xã Y, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không.

- Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông: Lường Văn M, sinh năm 1972; Con bà: Đặng Thị T, sinh năm 1974; Gia đình có 2 anh em. Bị cáo là con thứ nhất; Vợ : Đặng Thị Bích T, sinh năm 1998 (chưa đăng ký kết hôn); Con: Chưa có.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/8/2019 đến nay).

Người bào chữa: Bà Lê Thị H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thái Nguyên; (Có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1969; (Vắng mặt tại phiên tòa).

Nơi cư trú: Tổ X, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 16 giờ 30 phút ngày 22/8/2019, tổ công tác Công an phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực chợ T thuộc tổ Y của phường thì phát hiện một nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiếp cận, yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên tự khai là Lường Việt Đ. Trong quá trình kiểm tra, Đ tự nguyện giao nộp cho tổ công tác từ túi quần phía trước bên trái Đ đang mặc 01 bao thuốc lá màu vàng có chứa 02 gói giấy bạc màu trắng, bên trong mỗi gói giấy bạc có chứa chất bột màu trắng. Đ khai số chất bột màu trắng là Heroine mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lường Việt Đ và thu giữ niêm phong vật chứng theo đúng quy định.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã tiến hành mở niêm phong cân xác định: Khối lượng bột màu trắng thu giữ của Lường Việt Đ có khối lượng 0,52 gam và lấy mẫu gửi giám định ký hiệu Đ.

Tại bản Kết luận giám định số 1212/KL-KTHS ngày 30/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Lường Việt Đ là chất ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,52 gam.

Tại cơ quan điều tra, Lường Việt Đ khai nhận: Chiều ngày 22/8/2019, Đ có nhu cầu mua ma túy để sử dụng, Đ đã liên lạc với một người đàn ông tên D để mua ma túy và hẹn gặp nhau ở chợ Thái. Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 22/8/2019, Đ một mình bắt xe bus từ thành phố S, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực đường tròn thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Sau đó, Đ đi bộ đến khu vực tầng 2 chợ T để tìm mua ma túy. Tại đây, Đ gặp và mua của D 02 gói ma túy Heroine để trong vỏ bao thuốc lá màu vàng với giá 700.000 đồng. Mua xong, Đ cất gói ma túy vào túi quần phía trước bên trái đang mặc và đi tìm nơi sử dụng thì bi tổ công tác Công an phường T, thành phố T , tỉnh Thái Nguyên phát hiện, kiểm tra, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án là: 01 bì niêm phong ký hiệu Đ.

Hiện được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 163/CT-VKSTPTN, ngày 05/11/ 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Lường Việt Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên chiều ngày 22/8/2019, Đ có nhu cầu mua ma túy để sử dụng, Đ đã liên lạc với một người đàn ông tên D để mua ma túy và hẹn gặp nhau ở chợ Thái. Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 22/8/2019, Đ một mình bắt xe bus từ thành phố S, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực đường tròn thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Sau đó, Đ đi bộ đến khu vực tầng 2 chợ T để tìm mua ma túy. Tại đây, Đ gặp và mua của D 02 gói ma túy Heroine để trong vỏ bao thuốc lá màu vàng với giá 700.000 đồng. Mua xong, Đ cất gói ma túy vào túi quần phía trước bên trái đang mặc và đi tìm nơi sử dụng thì bi tổ công tác Công an phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên phát hiện, kiểm tra, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lường Việt Đ, đã công bố bản luận tội đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lường Việt Đ phạm tội “ tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Lường Việt Đ từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/8/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy vật chứng: 01 bì niêm phong đúng quy định kí hiệu Đ (bên trong chứa ma túy – mẫu hòng lại sau giám định, mặt sau phong bì có 02 hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên có chữ ký của Trương Đăng Tam).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST nộp ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan.

Người bào chữa cho bị cáo bà Lê Thị H nhất trí với nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của đại diên viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhe trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử khi lượng hình cần xem xét đến nguyên nhân phạm tội của bị cáo, do bị cáo là người dân tộc thiểu số, có hạn chế nhất định về hiểu biết xã hội nên đã phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Lường Việt Đ từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/8/2019.

Bị cáo nói lời sau cùng xin hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng, biên bản cân xác định trọng lượng, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và những chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 16 giờ 30 phút ngày 22/8/2019, tại tổ Y, phương T , thành phố T , tỉnh Thái Nguyên, Lường Việt Đ có hành vi tàng trữ 0,52 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phương T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Như vậy, hành vi của bị cáo Lường Việt Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi phạm tội của bị cáo Lường Việt Đ vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vân chuyển, sản xuất trai phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…

Do vậy bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.

- Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền về ma túy của nhà nước, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự của địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của bản thân bị cáo. Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Nên cần có hình phạt tương xứng với tội trạng của bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo Lường Việt Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình năm 2015.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, nghiện ma túy nhưng không chịu cai nghiện để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội chứng tỏ bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém.

Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo là người nghiện ma túy, tuy nhiên đã không chịu cai nghiện, không chịu lao động, không chịu rèn luyện và ý thức chấp hành pháp luật kém. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lời bất chính và qua xác minh thấy rằng bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý các vật chứng sau:

Đi với vật chứng là 01 bì niêm phong kí hiệu Đ (bên trong chứa ma túy – mẫu hoàn lại sau giám định, mặt sau phong bì có 02 hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên có chữ ký của Trương Đăng Tam) , do đó cần tịch thu tiêu hủy.

- Về những vấn đề khác:

Áp dụng Điều 329 Bộ luật TTHS năm 2015 tiếp tục tạm giam bị cáo Lường Việt Đ thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước, theo quy định của pháp luật.

Thông báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Trong vụ án này Lường Việt Đ khai mua của người đàn ông tên D không rõ lai lịch và địa chỉ. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên về mức hình phạt đối với bị cáo và các vấn đề khác là phù hợp với quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Áp dụng: Điểm c khoản1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luât hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Lường Việt Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy"

Về hình phạt:

Xử phạt: Lường Việt Đ 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/8/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Áp dụng: Điều 329 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Quyết định tạm giam bị cáo Lường Việt Đ 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu Đ (bên trong chứa ma túy – mẫu hoàn lại sau giám định, mặt sau phong bì có 02 hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên có chữ ký của Trương Đăng Tam).

(biên bản giao nhận vật chứng số 57 ngày 05 /11/2019).

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ –UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST sung quỹ Nhà nước.

Quyền kháng cáo:

Bị cáo Lường Việt Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 627/2019/HSST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:627/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về