Bản án 62/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 62/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2020/TLST-HS ngày 28/8/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2020/QĐXXST-HS ngày 03/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 06/10/1972, tại xã Quài N, huyện Tuần G, tỉnh Điện B; Nơi cư trú: Bản Minh Th, xã Quài N, huyện Tuần G, tỉnh Điện B; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ học vấn: Lớp 2; con ông: Lê Văn H (Đã chết); con bà: Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1932; Bị cáo có 06 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; vợ: Phùng Thị D, sinh năm 1975 và có 02 người con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, Tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21/3/1997 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B xử phạt 17 tháng 15 ngày tù về tội: “Cố ý gây thương tích” và trốn khỏi nơi giam; ngày 24/7/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên xử phạt 42 tháng tù về tội:“Chiếm đoạt, mua bán trái phép vật liệu nổ”; ngày 25/7/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên xử phạt 48 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 01/11/2015 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống, hiện đã được xóa án tích; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/6/2020 đến ngày xét xử, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ ngày 27/6/2020, Lê Văn h đi nhờ xe của một người đàn ông không quen biết đi ra thị trấn Tuần G để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến chợ trung tâm thị trấn Tuần G, h gặp người đàn ông tên H (là người đã từng đi chấp hành án phạt tù với H) nhưng H không biết năm sinh, địa chỉ cụ thể của H. Qua nói chuyện H đã nhờ H mua cho H 2.000.000 đồng ma túy, H nhận tiền và bảo H ngồi ở vỉa hè đợi H còn H vẫy xe của một người đi đường về hướng ngã ba thị trấn T G. Khoảng hai giờ sau H quay lại và đưa cho H một gói ma túy được gói bằng nilon màu đen. H nhận gói ma túy và tiếp tục vẫy xe về nhà. Khi về đến nhà H ngồi ở bếp và mở gói ma túy ra thì thấy bên trong có một cục Heroine và 17 viên ma túy tổng hợp. Hồi lấy dao lam cắt lấy 1 phần nhỏ Heroine và 01 viên ma túy tổng hợp trộn vào nhau để sử dụng bằng hình thức hút. Sử dụng xong, H chia cục Heroine thành khoảng hơn 30 phần rồi lấy các mảnh nilon màu vàng gói 13 phần thành 13 gói và cho vào lọ nhựa màu trắng nhãn hiệu “Viên khớp Tâm Bình” và cất trong túi treo ở cột nhà gian bếp. Số Heroine còn lại H lấy các mảnh nilon màu trắng gói các phần lại được khoảng 20 gói và có 04 cục Heroine H không gói. Sau đó lấy mảnh nilon màu trắng gói chung các gói Heroine và bốn cục Heroine lại. Còn 16 viên ma túy tổng hợp H lấy mảnh nilon màu trắng gói lại thành một gói, sau đó Hồi cất giấu tất cả hai gói nilon màu trắng chứa Heroine và ma túy tổng hợp vào trong túi quần đằng sau bên phải đang mặc. Từ ngày 28/6/2020 đến ngày 30/6/2020, Hồi lấy 01 viên ma túy tổng hợp và các gói Heroine ra để sử dụng nhưng không nhớ cụ thể bao nhiêu gói.

Đến khoảng 11 giờ 05 phút ngày 30/6/2020 khi Lê Văn H đang ở nhà thì bị tổ công tác công an huyện Tuần G bắt quả tang thu giữ trong túi quần 02 gói nilon màu trắng, trong đó 01 gói chứa 11 gói nilon màu trắng nghi Heroine và 04 cục bột màu trắng nghi là Heroine, gói nilon còn lại chứa 15 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp. Đồng thời khám xét nơi ở của Lê Văn H thu giữ 01 lọ nhựa màu trắng bên trong có 13 gói nilon màu vàng bên trong có các cục bột màu trắng nghi là Heroine.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 09 giờ 00 phút ngày 01/7/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần G đã xác định: Gói niêm phong số 1 lấy 2 mẫu: Mẫu chất bột màu trắng nghi Heroine có khối lượng là 1,05 gam, trích mẫu 0,09 gam gửi giám định, còn lại 0,96 gam; số viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp có khối lượng 1,43 gam, trích mẫu gửi giám định 0,09, còn lại 1,34 gam. Mẫu chất bột màu trắng trong gói niêm phong thứ 2 có khối lượng 0,75 gam trích gửi giám định 0,08 gam, còn lại 0,67 gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 344/GĐ-PC09 ngày 24/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ B đã kết luận: 2 mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lê Văn H gửi giám định là Heroine, mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lê Văn H gửi giám định là Methamphetaminne. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do cần có ma túy để sử dụng nên bị cáo đã đi mua ma túy, bị bắt quả tang khi đang tàng trữ 1,8 gam Heroine và 1,43 gam Methamphetamine, tổng khối lượng 2 chất ma túy bị thu giữ là 3,23 gam. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.

Tại bản Cáo trạng số: 64/CT-VKSTG ngày 27/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G đã truy tố bị cáo về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s Khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249/BLHS.

Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình Sự; Điểm a, điểm c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu số vật chứng còn lại sau khi đã giám định: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có: Mẫu số 1: 0,96 gam Heroine đựng trong 01 túi nilon màu trắng hàn kín lại; mẫu số 2: 1,34 gam Methamphetamine đựng trong túi nilon màu trắng hàn kín lại, mẫu số 3: 0,67 gam Heroine; 02 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng; 13 gói nilon màu trắng; 13 gói nilon màu vàng; 01 lọ nhựa màu trắng nhãn hiệu viên khớp Tâm Bình.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Bị cáo không tự bào chữa cho hành vi của mình, Đại diện Viện Kiểm sát và bị cáo không có quan điểm tranh luận.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 11 giờ 05 phút ngày 30/6/2020, tại nhà bị cáo Lê Văn H, bị cáo bị bắt quả tang khi đang cất giấu trái phép trong túi quần 1,05 gam Heroine và 1,43 gam Methamphetamine. Khám xét khẩn cấp nhà ở của Lê Văn H thu giữ của Hồi 0,75 gam Heroine. Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Lê Văn Hồi là 3,23 gam (gồm 1,8 gam Heroine và 1,43 gam Methamphetamine). Bị cáo cất giấu nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 01- 02); Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng (BL 27-28); Kết luận giám định (BL 33); các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo, bản tự khai của bị cáo, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã tàng trữ trái phép 1,8 gam Heroine và 1,43 gam Methamphetamine, tổng khối lượng ma túy là 3,23 gam, mc đích sử dụng cho bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt từ 01 đến 05 năm tù, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lê Văn H sinh ra và lớn lên tại huyện Tuần G, tỉnh Điện B, học hết lớp 2 thì nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Sử dụng ma túy từ năm 1995. Bị cáo không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng nào. Về nhân thân: Ngày 21/3/1997 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên xử phạt 17 tháng 15 ngày tù về tội:“Cố ý gây thương tích” và trốn khỏi nơi giam; ngày 24/7/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B xử phạt 42 tháng tù về tội:“Chiếm đoạt, mua bán trái phép vật liệu nổ”; ngày 25/7/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B xử phạt 48 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” hiện đã được xóa án tích nên bị cáo là người có nhân thân xấu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

HĐXX xét xử sẽ cân nhắc hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ rất nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải thật nghiêm khắc, phải lần nữa cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, xét đề nghị của đại diện VKS là có căn cứ nên cần được chấp nhận. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai nhờ người đàn ông tên Hoan mà bị cáo không nhớ địa chỉ cụ thể mua hộ, cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ, HĐXX không xem xét.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình, bị cáo là người nghiện ma túy, nghề nghiệp làm nông nghiệp nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình Sự; Điểm a, điểm c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có: Mẫu số 1: 0,96 gam Heroine đựng trong 01 túi nilon màu trắng hàn kín lại; mẫu số 2: 1,34 gam Methamphetamine đựng trong túi nilon màu trắng hàn kín lại, mẫu số 3: 0,67 gam Heroine; 02 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng; 13 gói nilon màu trắng; 13 gói nilon màu vàng; 01 lọ nhựa màu trắng nhãn hiệu viên khớp Tâm Bình.

[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H: 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính ngày bắt tạm giữ, ngày 30/6/2020.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình Sự; Điểm a, điểm c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có: Mẫu số 1: 0,96 gam Heroine đựng trong 01 túi nilon màu trắng hàn kín lại; mẫu số 2: 1,34 gam Methamphetamine đựng trong túi nilon màu trắng hàn kín lại, mẫu số 3: 0,67 gam Heroine; 02 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng; 13 gói nilon màu trắng; 13 gói nilon màu vàng; 01 lọ nhựa màu trắng nhãn hiệu viên khớp Tâm Bình.

(Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Tuần Giáo bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo hồi 08 giờ 30 phút ngày 28 tháng 8 năm 2020)

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 16/9/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về