Bản án 62/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Thị Thanh N, sinh ngày 13 tháng 02 năm 1972 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Phố A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Phường D, quận C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H (đã chết) và bà Phạm Thị H, sinh năm 1953; có chồng là Lê Văn T và 02 con; nhân thân, tiền án, tiền sự: Không; bị bắt quả tang ngày 20/3/2019; tạm giữ ngày 21/3/2019; tạm giam ngày 23/3/2019; có mặt.

- Những người làm chứng: Anh Đỗ Minh T và anh Nguyễn Đình T; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do hoàn cảnh khó khăn nên từ cuối năm 2018, Phạm Thị Thanh N bắt đầu thực hiện hành vi mua chất ma túy ở khu vực đường tàu Mê Linh về chia nhỏ bán kiếm lời phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày. Mỗi lần N mua khoảng 3.000.000 đồng tiền ma túy đá và được người bán ma túy cho 01 cân điện tử, túi nilon các loại và 01 ống nhựa màu đen cắt vát hai đầu để chia, cân ma túy; cứ bán hết lượng ma túy vừa mua thì N lại tiếp tục mua ma túy về bán.

Khoảng 09 giờ ngày 18/3/2019, N một mình đến đường tàu Mê Linh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng mua của 1 người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy đá, kích thước khoảng 8 x 8cm với số tiền 7.000.000 đồng. Sau khi mua ma túy về, N dùng ống nhựa cắt vát hai đầu và cân điện tử chia gói ma túy đá thành 13 gói nhỏ (trong đó 05 gói có kích thước 2,5 x 2,5cm; 03 gói có kích thước 1,5 x 1,5cm; 05 gói kích thước 1 x 1cm) rồi giấu vào 01 găng tay màu xanh tím than để trong túi nilon treo dưới bàn thờ ở phòng khách để chờ khách đến mua. Số ma túy còn lại, N giấu cùng ống nhựa, cân điện tử và túi nilon để bên trong túi nilon màu đỏ, treo trên tường phòng ngủ. N dự định bán gói ma túy kích thước 2,5 x 2,5cm với giá 200.000 đồng/gói; bán gói ma túy kích thước 1,5 x 1,5cm giá 200.000 đồng/gói; bán gói ma túy kích thước 1 x 1cm giá 150.000 đồng/gói.

Khoảng 13 giờ ngày 19/3/2019 N đã bán cho Đỗ Minh T 01 gói ma túy kích thước 1 x 1cm với giá 100.000 đồng. Đến khoảng 19 giờ ngày 20/3/2019, khi N đang bán cho T 01 gói ma túy kích thước 1,5 x 1,5cm với giá 200.000 đồng và bán cho Nguyễn Đình T 01 gói ma túy kích thước 1 x 1cm với giá 150.000 đồng tại nhà của bị cáo thì bị cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Trong lúc đó, T đã vứt gói ma túy đá vừa mua của N nên cơ quan Công an không thu giữ được.

Kết luận giám định số 109/KLGĐ (Đ6) ngày 22/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Tinh thể của mẫu số 1 (màu trắng, thu giữ của Nguyễn Đình T) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0340 gam, là loại: Methamphetamine; Tinh thể của mẫu số 2 (màu trắng, thu giữ bên trong 10 gói nilon cất giấu trong 01 găng tay màu xanh tím than để trong túi nilon treo dưới bàn thờ ở phòng khách) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 3,7201 gam, là loại: Methamphetamine; Tinh thể của mẫu số 3 (màu trắng, thu giữ bên trong 01 gói nilon bên trong túi nilon màu đỏ treo trên tường phòng ngủ) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 19,599 gam, là loại: Methamphetamine.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì số 109/2019/PC09 niêm phong chất ma túy sau giám định, 01 cân điện tử, 01 ống nhựa màu đen, 20 vỏ nilon các loại và số tiền 350.000 đồng đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự quận Ngô Quyền.

Tại Bản Cáo trạng số 56/CT-VKSNQ ngày 13/8/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Thị Thanh N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị Thanh N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Bị cáo N khai số ma túy thu giữ tại nhà bị cáo để chia nhỏ bán bán kiếm lời chi tiêu cá nhân. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và trình bày có bố chồng là ông Lê Ngọc B được tặng thưởng Huân chương chiến thắng hạng ba và Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất.

Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng các điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị Thanh N mức án từ 10 năm đến 11 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản nên không buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự .

Về xử lý vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong số 109/2019/PC09 niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm; 01 cân điện tử, 01 ống nhựa màu đen, 20 vỏ nilon các loại là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; buộc bị cáo phải nộp lại số tiền bán ma túy cho Đỗ Minh T ngày 19/3/2019 là 100.000 đồng; số tiền 350.000 đồng là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về căn cứ xác định tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo:

[1] Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của những người làm chứng có trong hồ sơ vụ án và vật chứng thu giữ có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phạm Thị Thanh N đã có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy Methamphetamine cho Đỗ Minh T vào ngày 19/3/2019; đến ngày 20/3/2019 tiếp tục bán trái phép 02 gói ma túy cho Đỗ Minh T và Nguyễn Đình T tại nơi ở phường D, quận C, thành phố Hải Phòng và bị cáo N có hành vi cất giữ trái phép 23,3191 gam Methamphetamine trong nhà để bán kiếm lời. Vì vậy, hành vi của Phạm Thị Thanh N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đối với bị cáo Phạm Thị Thanh N về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm chính sách quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm suy giảm sức khỏe của cộng đồng mà còn xâm phạm trật tự trị an xã hội, góp phần gián tiếp làm phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt vì tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bố chồng là ông Lê Ngọc B được tặng thưởng Huân chương chiến thắng hạng ba và Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất; bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Về hình phạt bổ sung:

[4] Do bị cáo N không có công việc, thu nhập ổn định và không có tài sản nên không buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự .

- Về vật chứng của vụ án:

[5] 01 phong bì niêm phong số 109/2019/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm; 01 cân điện tử, 01 ống nhựa màu đen cắt vát hai đầu, 20 vỏ nilon các loại là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; buộc bị cáo phải nộp lại số tiền bán ma túy cho Đỗ Minh T ngày 19/3/2019 là 100.000 đồng; số tiền 350.000 đồng bán ma túy cho Đỗ Minh T và Nguyễn Đình T ngày 20/3/2019 là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về án phí:

[6] Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14; bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm - Về quyền kháng cáo:

[7] Bị cáo Phạm Thị Thanh N được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

[8] Việc khởi tố, điều tra, truy tố và ban hành quyết định khởi tố, truy tố; áp dụng biện pháp ngăn chặn; tống đạt các văn bản tố tụng; lấy lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; thời hạn điều tra, truy tố; thủ tục giám định trong tố tụng hình sự đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Trong vụ án này, đối tượng Đỗ Minh T có hành vi mua ma túy của bị cáo N để sử dụng cho bản thân nhưng khi bắt quả tang không thu được gói ma túy mà T vừa mua của N nên cơ quan Điều tra không có căn cứ xem xét, xử lý. Đối tượng Nguyễn Đình T mua ma túy của bị cáo N mục đích để sử dụng, nhân thân chưa tiền án, tiền sự về các tội phạm về ma túy; số ma túy đã mua không đủ trọng lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự nên cơ quan Điều tra đã ra Quyết định xử lý hành chính đối với T. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho N, do chưa xác định được lai lịch, đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Thị Thanh N 11 (mười một) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20 tháng 3 năm 2019.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 109/2019/PC09; 01 cân điện tử, 01 ống nhựa màu đen, 20 vỏ nilon các loại theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 350.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 3140 ngày 14/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Buộc bị cáo Phạm Thị Thanh N nộp lại số tiền 100.000 đồng là tiền do phạm tội mà có sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Phạm Thị Thanh N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Phạm Thị Thanh N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về