Bản án 61/2020/HSST ngày 27/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 61/2020/HSST NGÀY 27/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 04 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 92/2020/HSST ngày 01/04/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2020/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 04 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Ngọc A - sinh năm: 1979 tại Hà Nội; ĐKHKTT và chỗ ở: phường X, quận N, Hà Nội; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Ngọc H (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị Đ (đã chết); Theo danh bản, chỉ bản số 24 do Công an quận Cầu Giấy lập ngày 06/01/2020; Tiền án: ngày 30/05/2012, TAND quận Long Biên xử 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 26/11/2014, TAND quận Nam Từ Liêm xử 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 24/09/2015, TAND tỉnh Thanh Hóa xử 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt với bản án số 164 ngày 26/11/2014 của TAND quận Nam Từ Liêm, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 54 tháng tù. Ra trại ngày 01/02/2019; Tiền sự: không; Nhân thân: ngày 24/05/1996, TAND huyện Từ Liêm xử 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 20/09/1996, TAND huyện Chương Mỹ xử 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp với bản án số 56 ngày 24/05/1996 của TAND huyện Từ Liêm, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 15 tháng tù; ngày 21/03/1997, TAND tỉnh Hà Tây xử 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 28/07/1999, TAND tỉnh Hà Tây xử 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 18/11/1999, TAND quận Đống Đa xử 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 27/11/2000, TAND huyện Thạch Thất xử 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 12/07/2006, TAND quận Nam Từ Liêm xử 48 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Tạm giữ ngày: 09/12/2019; (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 35 phút ngày 08/12/2019, tổ công tác Công an phường D, phối hợp với tổ công tác Y18/141 - Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ trước cổng trường Đại học Q, số A đường X, phường D, quận C, Hà Nội phát hiện Trần Ngọc A điều khiển xe máy Honda Airblade, biển kiểm soát 29Y9 – 0059 có biểu hiện nghi vấn, nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, Ngọc A đã thả 01 túi nilon bên trong có 05 viên nén hình tròn màu hồng từ tay trái đang cầm xuống đất cạnh chỗ đứng nhưng đã bị tổ công tác phát hiện và thu giữ. Ngoài ra, cơ quan công an còn thu giữ của Ngọc A 01 xe máy Honda Airblade, biển kiểm soát 29Y9 – 0059. Tại chỗ, Ngọc A khai nhận 05 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy tổng hợp mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản, niêm phong tang vật, đưa Ngọc A về trụ sở công an để làm việc.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Ngọc A tại phường X, quận N, Hà Nội không phát hiện thu giữ gì liên quan đến vụ án.

Kết luận giám định số 7873/KLGĐ-PC09 ngày 16/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: 05 viên nén hình tròn bên trong 01 túi nilon đều là ma túy loại Methamphetamin, tổng khối lượng 0,554 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Ngọc A khai nhận: Khoảng 15 giờ 00 ngày 08/12/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Trần Ngọc A đã mượn xe máy Honda Airblade, biển kiểm soát 29Y9 – 0059 của chị Ngô Thị Thu H (sinh năm: 1984, Trú tại: tổ A, phường X, quận N, Hà Nội là bạn xã hội) đi có việc. Sau đó, Ngọc A điều khiển xe máy đến bến xe K mua được của 01 phụ nữ không quen biết 01 túi ma túy bên trong có 05 viên ma túy tổng hợp với giá 200.000 đồng. Mua xong, Ngọc A cầm túi ma túy trên ở tay trái rồi đi xe máy về nhà. Khi Ngọc A đi đến số A đường X, phường D, quận C, Hà Nội thì bị lực lượng công an phát hiện và bắt giữ.

Xét nghiệm nước tiểu của Trần Ngọc A cho kết quả dương tính với ma túy. Lời khai của Trần Ngọc A phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Đố với chiếc xe máy Honda Airblade, biển kiểm soát 29Y9 – 0059, số khung 562730, số máy 5062819 thu giữ của Trần Ngọc A. Kết quả tra cứu xe không nằm trong hệ thống xe tang vật. Quá trình điều tra xác định là xe của chị Ngô Thị Thu H, chị H cho Ngọc A mượn xe, không biết Ngọc A sử dụng xe để đi mua ma túy. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của chị H nên cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy cho chị H. Chị H đã nhận xe và không yêu cầu gì khác.

Đi với đối tượng bán ma túy cho Trần Ngọc A, do Trần Ngọc A không biết nhân thân, lai lịch nên cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Bản cáo trạng số 108/CT-VKSCG ngày 31/03/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã truy tố Trần Ngọc A về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Bị cáo thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố Trần Ngọc A về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy và đề nghị áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điều 38, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Trần Ngọc A từ 5 năm 6 tháng tù đến 6 năm 6 tháng tù. Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Vật chứng là ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

Căn cứ vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với những lời khai bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được, do vậy có đủ cơ sở xác định: khoảng 16 giờ 35 phút ngày 08/12/2019, tại trước cồng trường Đại học Q, số A đường X, phường D, quận C, Hà Nội, tổ công tác Công an phường D phối hợp với tổ công tác Y18/141 - Công an thành phố Hà Nội đã phát hiện và bắt quả tang Trần Ngọc A có hành vi tàng trữ trái phép 0,554 gam Methamphetamin, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Nhân thân của bị cáo xấu. Từ năm 1996 đến năm 2015, bị cáo có 10 tiền án đều về tội Trộm cắp tài sản. Trong đó, các tiền án năm 2012, 2014 và 2015 của bị cáo chưa được xóa. Bị cáo phạm tội lần này là tái phạm nguy hiểm. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước vể ma túy. Hành vi của bị cáo đã tự hủy hoại sức khỏe, trí tuệ của con người gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển lành mạnh của xã hội, cũng như gây mất trật tự trị an tại địa phương nơi có tội phạm xảy ra. Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, có nhận thức đầy đủ về tác hại của ma túy và đường lối xử lý của pháp luật, nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xét bị cáo khai báo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải để áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về vật chứng: ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm Sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, xử phạt: Trần Ngọc A từ 5 năm 6 tháng tù đến 6 năm 6 tháng tù là phù hợp với hành vi của bị cáo.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm o khoản 2 Điều 249; Điều 38, điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Điều 106, Điều 136, Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: bị cáo Trần Ngọc A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Trần Ngọc A 5 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2019.

Vt chứng: Tch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên Trần Ngọc C bên trong có chứa: 05 viên nén hình tròn bên trong 01 túi nilon đều là ma túy loại Methamphetamin, tổng khối lượng 0,554 gam (theo Biên bản giao nhận vật chứng số 138 ngày 31/03/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy).

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2020/HSST ngày 27/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về