Bản án 61/2020/HS-ST ngày 06/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 61/2020/HS-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Hoàng Văn D. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày 03 tháng 9 năm 2001. Nơi sinh: huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Nơi đăng ký HKTT và nơi ở: xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Chức vụ ĐTĐP: Không. Con ông: Hoàng Văn T và bà Lường Thị R. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2020. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn T, sinh năm: 1998. Trú quán: xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 31/3/2020 khi Hoàng Văn D đi bộ từ quán tạp hoá (tại xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La) về nhà thì gặp Hoàng Văn Đ điều khiển xe môtô BKS 26B2-503.90 đến rủ D đi chơi (Đ không nói đi đâu, làm gì). Khi đi được khoảng 200m, Đ lấy 01 lọ thuỷ tinh có nắp đậy được quấn bằng mảnh băng dính màu đen từ trong túi áo bên phải Đ đang mặc đưa cho D cầm. D mở lọ thuỷ tinh thấy bên trong là các viên Hồng phiến, D xin Đ 01 viên để sử dụng đồng thời lấy 01 viên cho vào túi áo khoác bên trái đang mặc và cầm lọ thuỷ tinh chứa các viên Hồng phiến trong lòng bàn tay trái. Khi đi được khoảng 100m, D và Đ bị tổ công tác Công an huyện Mai Sơn phát hiện, kiểm tra. D đã thả lọ thuỷ tinh xuống mặt đường làm 01 viên nén màu hồng bị rơi ra cách lọ nhựa 5cm, bên trong lọ có các viên nén màu hồng, kiểm tra phát hiện 01 viên nén màu hồng trong túi áo khoác bên trái D đang mặc (trên bề mặt các viên nén đều có ký hiệu “WY”) nghi là Hồng phiến. Còn Đ đã bỏ chạy thoát, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D và thu giữ niêm phong vật chứng nêu trên. Ngoài ra còn tạm giữ: 01 xe môtô nhãn hiệu Wave α màu trắng, biển kiểm soát 26B2-503.90.

Ngày 01/4/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Sơn phối hợp với Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Hoàng Văn D, kết quả:

01 lọ thuỷ tinh bên trong có 26 viên nén màu hồng cân tịnh có tổng khối lượng là 2,54 gam, lấy 05 viên có khối lượng 0,5 gam làm mẫu ký hiệu M1 trưng cầu giám định.

Khối lượng 01 viên nén màu hồng là 0,1 gam, lấy toàn bộ làm mẫu ký hiệu M2 trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 568/KLMT ngày 03/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

“- Mẫu gửi giám định ký hiệu M1, M2 đều là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định M1 = 0,5 gam, M2 = 0,1 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,64 gam; loại Methamphetamine”.

Tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Bản cáo trạng số 63/CT-VKSMS ngày 13/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối vớibị cáo và đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D từ 24 (hai mươi bốn) tháng đến 30 (ba mươi) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: Vật chứng còn lại sau trích rút mẫu giám định T = 2,04 gam methamphetamine; 02 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 lọ thủy tinh hình trụ có nắp đậy kích thước 1,5cam x 3cm được quấn bên ngoài bằng băng dính màu đen; túi nilon chứa ma túy ban đầu.

Trả lại cho anh Lò Văn T 01 xe máy nhãn hiệu Wave a, màu trắng, biển kiểm soát 26B2- 503.90.

Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo tự bào chữa: nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hoàng Văn D là người sử dụng trái phép chất ma tuý. Ngày 31/3/2020 tại bản Tong Chinh, xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, Công an huyện Mai Sơn bắt quả tang Hoàng Văn D khi đang tàng trữ trái phép 2,64 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 20 giờ 15 phút ngày 31/3/2020, biên bản mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng; phù hợp với kết luận giám định số 568/KLMT ngày 03/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La; phù hợp với biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị can và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn, không phát sinh tình tiết mới.

Như vậy, đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Hoàng Văn D đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Viện kiểm sát truy tố và Tòa án xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo. Điều luật quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[2] Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, Hội đồng xét xử thấy rằng: hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Hoàng Văn D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo có nhận thức được tác hại của ma túy nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật phạm tội với lỗi cố ý.

Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết: Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) sẽ được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo khi lượng hình.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng còn lại sau trích rút mẫu giám định T = 2,04 gam methamphetamine; 02 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 lọ thủy tinh hình trụ có nắp đậy kích thước 1,5cam x 3cm được quấn bên ngoài bằng băng dính màu đen; túi nilon chứa ma túy ban đầu. Đây là chất độc dược Nhà nước cấm lưu hành, các đồ vật liên quan đến việc cất giấu, sử dụng chất ma túy, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Wave a, màu trắng, biển kiểm soát 26B2- 503.90. Xét thấy là tài sản hợp pháp của anh Lò Văn T, anh T không biết việc bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội do đó cần trả lại tài sản trên cho anh Lò Văn T.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về các vấn đề khác:

Về nguồn gốc ma túy bị thu giữ: D khai là của Hoàng Văn Đ đưa cho D.

Quá trình điều tra, ghi lời khai và cho D đối chất với Đ, kết quả Đ không thừa nhận việc đưa Methamphetamine cho D, do có quan hệ quen biết nên Đ điều khiển xe chở D về nhà không biết việc D tàng trữ trái phép chất ma tuý (việc trao đổi giữa Đ và D không có người tham gia, chứng kiến). Ngoài lời khai của D không có tài liệu, chứng cứ khác chứng minh. Do đó, Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với Hoàng Văn Đ. Buộc bị can Hoàng Văn D phải chịu trách nhiệm hình sự về toàn bộ số Methamphetamine thu giữ trong vụ án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D 26 (hai mươi sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 01/4/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: Vật chứng còn lại sau trích rút mẫu giám định T = 2,04 gam methamphetamine; 02 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 lọ thủy tinh hình trụ có nắp đậy kích thước 1,5cam x 3cm được quấn bên ngoài bằng băng dính màu đen; túi nilon chứa ma túy ban đầu.

Trả lại cho anh Lò Văn T 01 xe máy nhãn hiệu Wave a, màu trắng, biển kiểm soát 26B2- 503.90.

(Toàn bộ vật chứng hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 06/8/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2020/HS-ST ngày 06/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về