Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 61/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường toà án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 246/2020/TLST- HNGĐ, ngày 12 tháng 10 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2020/QĐXXST -HNGĐ, ngày 15 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự: Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1977 Nơi ĐKHKTT: Xóm K, xã TT, huyện QL, tỉnh Nghệ An; Chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã QT, huyện QL, tỉnh Nghệ An. Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1971 Nơi cư trú: Xóm K, xã TT, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, phiên hòa giải và tại phiên tòa; Nguyên đơn chị Nguyễn Thị C tr×nh bµy: Chị và anh Nguyễn Xuân H có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 20/02/2012 tại Uỷ ban nhân dân xã TT, huyện QL, tỉnh Nghệ An; kết hôn là tự nguyện. Trong quá trình chung sống, do tính tình không phù hợp, anh H có tính gia trưởng nên thường xảy ra mâu thuẫn vợ chồng và bị ngược đãi. Cuối năm 2019 mâu thuẫn căng thẳng, anh H đuổi chị và con ra khỏi nhà nên chị đã đưa con về bên ngoại ở, sau đó anh H sang đưa con về. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 6/2019 cho đến nay không còn quan tâm nhau, có liên lạc nhưng cũng chỉ xảy ra cãi nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống không thể kéo dài nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Xuân H.

Về con: Anh H có 01 con riêng là Nguyễn Duy M, sinh ngày 05/01/1998 đã đủ 18 tuổi trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thế M, sinh ngày 29/11/2012. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con chung là M; tại đơn khởi kiện và tại phiên hòa giải chị yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ, tại phiên tòa chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Chị làm công nhân, lương mỗi tháng 6.000.000đồng. Chị đang ở với bố mẹ đẻ, hiện nay bố mẹ chị đang hoàn tất thủ tục tặng cho chị 01 thửa đất để chị làm nhà đảm bảo chỗ ở, có điều kiện nuôi con tốt.

Về tài sản chung: Chị và anh H có tài sản chung là 01 bể nước; nhà tắm; nhà vệ sinh; mái tôn; chuồng dê xây dựng trên thửa đất là tài sản riêng của anh H có trước khi kết hôn; bình nóng lạnh; 01 xe máy Honda BKS 37L2 – 11701; 01 tủ lạnh; 01 máy lọc nước; 02 con nghé cái; 01 con trâu có tổng trị giá 80.000.000đ. Tại phiên hòa giải ngày 19/11/2020, hai bên đã thỏa thuận phân chia và đề nghị Tòa án ghi nhận như sau: Giao cho anh H được quyền sở hữu các tài sản chung của vợ chồng là hiện vật nêu trên và anh H trích trả cho chị số tiền 40.000.000đồng là giá trị chênh lệch tài sản.

Theo bản tự khai, phiên hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Xuân H trình bày: Anh nhất trí như lời trình bày của chị Nguyễn Thị C về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống do tính tình vợ chồng không hợp nên thường xảy ra mâu thuẫn cãi vã. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 6/2019 đến nay. Quá trình sống ly thân anh có có gọi điện và sang nhà ngoại cùng gia đình bàn bạc để vợ chồng quay về đoàn tụ nhưng không có kết quả. Nay chị C yêu cầu giải quyết ly hôn thì anh đồng ý ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn nữa.

Về con: Anh có 01 con riêng là Nguyễn Duy M, sinh ngày 05/01/1998 đã đủ 18 tuổi trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thế M, sinh ngày 29/11/2012. Ly hôn anh H có nguyện vọng nuôi con chung là Minh; tại phiên hòa giải anh yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ, tại phiên tòa anh không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con. Anh làm bảo vệ công ty xi măng lương mỗi tháng 5.000.000đ (năm triệu đồng) và có thêm thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, anh có nhà ở ổn định đủ điều kiện đảm bảo để nuôi con.

Về tài sản: Anh thống nhất như chị C trình bày. Tại phiên hòa giải ngày 19/11/2020 anh và chị đã tự thỏa thuận phân chia các tài sản chung và đề nghị Tòa án ghi nhận như sau: Anh xin được quyền sở các tài sản chung của vợ chồng là 01 bể nước; nhà tắm; nhà vệ sinh; mái tôn; chuồng dê xây dựng trên thửa đất là tài sản riêng của anh có trước khi kết hôn với chị C; bình nóng lạnh; 01 xe máy Honda BKS 37L2 – 11701; 01 tủ lạnh; 01 máy lọc nước; 02 con nghé cái; 01 con trâu có tổng trị giá 80.000.000đ. Anh đồng ý bù giá trị chênh lệch tài sản cho chị C là 40.000.000đồng.

Cháu Nguyễn Thế M trình bày: Thời gian bố mẹ sống ly thân cháu ở với bố; Bố làm bảo vệ thường phải đi trực đêm nên bố phải gửi cháu qua nhà o, chú, thời gian gần đây cháu ở với mẹ. Bố mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng xin được ở với mẹ.

Kết quả xác minh tại UBND xã TT: Chị C và anh H có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng chị C và anh H không ai khai báo chính quyền địa phương hòa giải nên không nắm rõ. Hiện nay chị C và anh H đang sống ly thân. Chị C và anh H có 01 con chung là Nguyễn Thế M, sinh ngày 29/11/2012, hiện nay cháu đang ở với anh H. Tòa án giải quyết ly hôn thì nên giao con cho chị C nuôi vì phụ nữ sẽ chăm sóc con tốt hơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng; Người tham gia tố tụng trong vụ án là nguyên đơn chấp hành pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành pháp luật theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và phát biểu về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận cho chị Nguyễn Thị C được ly hôn anh Nguyễn Xuân H, chấp nhận yêu cầu được nuôi con của chị C; công nhận về thỏa thuận phân chia tài sản của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đây là vụ án Dân sự “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”.

[2] Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Xuân H có đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở xóm K, xã TT, huyện QL, tỉnh Nghệ An. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Xuõn H là hợp pháp, tuân thủ các điều kiện kết hôn theo luật định. Qúa trình chung sống do tính cách vợ chồng không hợp nhau nên xảy ra nhiều mâu thuẫn và đã sống ly thân, thời gian sống ly thân anh H cũng đã bàn bạc với chị C trở về để gia đình đoàn tụ nhưng không có kết quả; trong quá trình giải quyết chị C yêu cầu ly hôn, anh H đồng ý ly hôn. Xét thấy chị C và anh H đã sống ly thân từ tháng 6/2019 đến nay, Chị C và anh H cũng thuận tình ly hôn. Việc thuận tình ly hôn giữa nguyên đơn và bị đơn là hoàn toàn tự nguyện, có căn cứ, phù hợp ĐiÒu 55 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con: Chị C và anh H đều có nguyện vọng được nuôi con. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Xét tính chất công việc của anh H làm bảo vệ, thường xuyên phải trực đêm cho nên không có đủ điều kiện thời gian để quản lý, chăm sóc cho con; Cháu Minh cũng có nguyện vọng xin được ở với mẹ. Các tình tiết này là rõ ràng theo lời khai của nguyên đơn và bị đơn cũng không phản đối. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, có căn cứ chấp nhận nguyện vọng của chị C là được trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị C không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.

[6] Về tài sản: Chị C và anh H thống nhất hai người có khối tài sản chung là 01 bể nước; nhà tắm, mái tôn, nhà vệ sinh, chuồng dê xây dựng trên thửa đất số 296 tờ bản đồ số 60 ở Xóm K, xã TT, huyện QL (thửa đất này là tài sản riêng của anh H có trước khi kết hôn); bình nóng lạnh; 01 xe máy Honda BKS 37L2 – 11701; 01 tủ lạnh; 01 máy lọc nước; 02 con nghé cái; 01 con trâu. Tại phiên hòa giải ngày 19/11/2020 Chị C và anh H thỏa thuận tự phân chia và đề nghị Tòa án giao cho anh H được quyền sở hữu các tài sản chung của vợ chồng là các hiện vật trên và anh H có trách nhiệm trích trả cho chị C một nữa giá trị tài sản chung là 40.000.000đồng. Đây là thỏa thuận phù hợp với pháp luật nghĩ nên chấp nhận.

[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu cả án phí ly hôn sơ thẩm và án phí phần tài sản thỏa thuận được nhận là 40.000.000đ; anh Nguyễn Xuân H phải án phí phần tài sản thỏa thuận được sở hữu tương ứng 40.000.000đ.

Bởi các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội.

Xö: Về tình cảm: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Xuân H.

Về con: Giao cho cho chị Nguyễn Thị C trực tiếp nuôi dưỡng con chung con chung là Nguyễn Thế M, sinh ngày 29/11/2012; tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh H vì chị C không yêu cầu.

Anh Nguyễn Xuân H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về tài sản: Giao anh Nguyễn Xuân H quyền sở hữu các tài sản là 01 bể nước, nhà tắm, mái tôn, nhà vệ sinh, chuồng dê xây dựng trên thửa đất số số 296 tờ bản đồ số 60 ở Xóm K, xã TT, huyện QL; bình nóng lạnh; 01 xe máy Honda BKS 37L2 – 11701; 01 tủ lạnh; 01 máy lọc nước; 02 con nghé cái; 01 con trâu. Anh Nguyễn Xuân H trích trả bù giá trị chênh lệch tài sản cho chị Nguyễn Thị C 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng).

Chị Nguyễn Thị C được nhận 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) do anh Nguyễn Xuân H giao trả.

Án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 1.000.000đ án phí chia tài sản; được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 5.300.000đ chị đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003851, ngày 12/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Anh Nguyễn Xuân H phải chịu 1.000.000đ án phí chia tài sản. Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị C 4.000.000đ.

Đương sự có mặt cú quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:61/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về