TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 78/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 21 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 223/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019 về Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2019 và quyết định Hoãn phiên tòa số 46 ngày 07 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hà Thị N, sinh năm 1991. (Có mặt)
- Bị đơn: Anh Ninh Xuân T, sinh năm 1985 (Vắng mặt lần 2)
Đều trú tại: thôn Đ, xã P, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai, tại phiên tòa chị Hà Thị N trình bày: Chị và anh Ninh Xuân T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn năm 2012 tại UBND xã P, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay, mỗi người một nơi, không ai quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, có chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T
Về con chung: Chị và anh T có một 02 chung là Ninh Bảo A, sinh ngày 05/01/2015 và Ninh Gia B, sinh ngày 17/01/2013. Chị đề nghị được trực tiếp nuôi con chung Gia B, anh T nuôi con chung Bảo A, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Về tài sản chung: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai, bị đơn là anh Ninh Xuân T trình bày: Anh và chị N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn năm 2012 tại UBND xã P. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống và làm ăn tự do tại Hà Nội, do không hiểu nhau, nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị N đã tự bỏ đi, vợ chồng không liên lạc được với nhau. Nay chị N xin ly hôn, anh muốn vợ chồng ngồi với nhau để nói chuyện, nếu chị N cố tình xin ly hôn anh đồng ý giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về con chung: Anh và chị N có một 02 chung là Ninh Bảo A, sinh ngày 05/01/2015 và Ninh Gia B, sinh ngày 17/01/2013. Ly hôn anh đề nghị được trực tiếp nuôi con chung Bảo A, giao con chung Gia B cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Về tài sản chung : Anh xác định vợ chồng không có tài sản chung.
Tại phiên tòa nguyên đơn là chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu trên, không thay đổi, bổ sung gì. Còn bị đơn là anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt không đến tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào bản tự khai, biên bản hòa giải và các tài liệu có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Toà án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh T vẫn vắng mặt tại phiên toà lần thứ 2. Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh T
[2]. Về nội dung: Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị N và anh Ninh Xuân T kết hôn với nhau hoàn toàn tự nguyện, hợp pháp, trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai đều không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình dẫn đến mâu thuẫn trở nên trầm trọng, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Như vậy, có căn cứ xác định vợ chồng đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị N được ly hôn anh T.
[3]. Về con chung: Chị N và anh T có một 02 chung là Ninh Bảo A, sinh ngày 05/01/2015 và Ninh Gia B, sinh ngày 17/01/2013. Hai bên đều đề nghị chị N trực tiếp nuôi con chung Gia B, anh T trực tiếp nuôi con chung Bảo A, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Xét đề nghị của chị N và anh T là hợp lý, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với các con chưa thành niên nên cần chấp nhận.
[4]. Về tài sản chung: chị N và anh T thống nhất xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016 về Án phí, Lệ phí Toà án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hà Thị N được ly hôn anh Ninh Xuân T.
2. Về con chung: Giao con chung Ninh Gia B, sinh ngày 17/01/2013 cho chị N trực tiếp nuôi con chung, Giao con chung Ninh Bảo A, sinh ngày 05/01/2015 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Hai bên đều có quyền đi lại thăm nom, giáo dục con chung không ai được ngăn cản. Vấn đề thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi có yên cầu
3. Về tài sản chung, nợ chung: không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai số 0001933 ngày 26/8/2019 tại cơ quan Thi hành án dân sự huyện Thái Thụy sang thi hành án phí, chị N đã nộp xong án phí.
5. Về quyền kháng cáo bản án : Chị N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án 78/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 78/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về