Bản án 61/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 61/2019/HS-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 05 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 37/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 03 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 05 năm 2019 đối với bị cáo:

PHAN VĂN H (Tên gọi khác: T)- Sinh ngày 06 tháng 12 năm 1979 tại Đà Nẵng; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: số 02 Ph, phường H, quận Th, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: phụ xe; trình độ văn hoá 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn L (c) và bà Nguyễn Thị Ch (c); có 01 con sinh năm 2000.

Tiền án: không; Tiền sự:

- Ngày 14.01.2013, bị Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đưa vào Trung tâm giáo dục dạy nghề 05-06 tập trung cai nghiện trong thời hạn 15 tháng theo Quyết định số 470/QĐ-UBND.

- Ngày 11.11.2015, bị Toà án nhân dân quận Th áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục dạy nghề 05-06 trong thời hạn 15 tháng theo Quyết định số 158/2015/QĐ-TA.

Nhân thân:

- Năm 2003 bị Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đưa vào Trung tâm giáo dục dạy nghề 05-06 tập trung cai nghiện trong thời hạn 12 tháng

- Năm 2005 bị Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đưa vào Trung tâm giáo dục dạy nghề 05-06 tập trung cai nghiện trong thời hạn 36 tháng.

- Năm 2008, bị Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đưa vào Trung tâm giáo dục dạy nghề 05-06 tập trung cai nghiện trong thời hạn 24 tháng.

Bị cáo bị bắt phạm tội quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 01.11.2018. (có mặt)

* Người làm chứng: Ông Huỳnh Văn B – Sinh năm 1978; trú tại: tổ 88, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10h30’ ngày 01.11.2018, tại khu vực cầu vượt Ngã ba Huế, TP. Đà Nẵng, Phan Văn H gặp người tên V (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 01 gói ma tuý đá với giá 5.000.000 đồng. V đồng ý và nhận tiền trước của H và hẹn giao ma tuý tại nhà của H tại số 02 đường Ph, P. H, Q. Th, TP. Đà Nẵng. Đến khoảng 13h00’ cùng ngày, V đem 01 gói ma tuý đá đến giao cho H, H lấy một ít ra sử dụng, số ma tuý còn lại H cất giấu trong người. Đến khoảng 19h50’ cùng ngày, khi H đang ngồi ăn uống tại số 109 Đ, P. H, Q. L, TP. Đà Nẵng thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố Đà Nẵng và Công an phường H kiểm tra hành chính, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ trên người của H 01 gói nilong bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma tuý loại hàng đá (kí hiệu C). Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phan Văn H tại 02 Ph, P. H, Q. Th, TP. Đà Nẵng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng tiếp tục phát hiện và thu giữ: 01 gói nilon bên trong có cục bột màu trắng nghi là ma tuý loại heroin (kí hiệu B1), nguồn gốc số ma tuý này do H mua của một nam thanh niên tên H (không rõ lai lịch) tại khu vực đường Đ, Q. Th, TP. Đà Nẵng vào ngày 31.10.2018 với giá tiền 600.000 đồng, H sử dụng một ít, số còn lại H cất giấu trong âm ly tại phòng ngủ; 01 gói nilon bên trong có chưa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma tuý loại hàng đá (kí hiệu B2), nguồn gốc số ma tuý này do H mua của một thanh niên không rõ lai lịch với giá 400.000 đồng về sử dụng một phần, còn lại H cất giấu trong âm ly tại phòng ngủ.

* Tang vật tạm giữ: 01 gói nilong trắng bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma tuý loại hàng đá (kí hiệu C); 01 gói nilon bên trong có cục bột màu trắng nghi là ma tuý loại heroin (kí hiệu B1); 01 gói nilon bên trong có chưa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma tuý loại hàng đá (kí hiệu B2); 01 điện thoại hiệu Samsung màu đen gắn sim 0901.120.711 và 0935.383.012; số tiền 1.000.000 đồng:

Những vật chứng này chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu tạm thời quản lý.

Theo Kết luận giám định số 220/GĐ-MT ngày 08.11.2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu B2, C gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng: B2: 0,108 gam; C: 6,271 gam; Mẫu cục bột màu trắng trong mẫu kí hiệu B1 gửi giám định là ma tuý, loại Heroin có trọng lượng 0,576 gam.

Tại bản cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 28.03.2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Phan Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phan Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Phan Văn H từ 05 năm đến 06 năm tù.

Xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tuyên:

- Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ chất ma tuý hoàn trả sau giám định đã được niêm phong

- Trả lại cho Phan Văn H 01 điện thoại hiệu Samsung màu đen gắn sim 0901.120.711 và 0935.383.012.

- Tiếp tục quy trữ số tiền 1.000.000 đồng thu giữ của Phan Văn H để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Phan Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Nẵng; Cơ quan điều tra Công an quận Liên Chiểu, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Văn H tại phiên tòa phù hợp phù hợp lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 01.11.2018 đối với Phan Văn H; Biên bản khám xét ngày 01.11.2018 tại số 02 Ph, thành phố Đà Nẵng; Kết luận giám định số 220/GĐ-MT ngày 08.11.2018 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Đà Nẵng. HĐXX có đủ cở sở kết luận: Vào ngày 01.11.2018, tại số 109 Đ, phường H, quận L, Phòng CSĐT tội phạm về ma tuý Công an TP Đà Nẵng và Công an phường H kiểm tra hành chính, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ trên người của Phan Văn H 01 gói nilong bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng là ma túy có trọng lượng 6,271 gam loại Methamphetamine. Khám xét khẩn cấp nơi ở của H tại 02 Ph, phường H, quận Th tiếp tục phát hiện và thu giữ: 01 gói nilon bên trong có cục bột màu trắng là ma túy có trọng lượng 0,576 gam loại heroin và 01 gói nilong bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng là ma túy có trọng lượng 0,108 gam loại Methamphetamine.

[3] Xét bị cáo Phan Văn H đã thực hiện việc mua và cất giấu bất hợp pháp tổng cộng 6,379 gam ma túy loại Methamphetamine và 0,576 gam ma túy loại heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung tăng nặng hình phạt “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này” được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 28.03.2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Phan Văn H là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma tuý gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự phát triển nòi giống của dân tộc, ma tuý là tệ nạn xã hội và là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, nhưng bản thân là người nghiện ma túy nên bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật vẫn cố ý mua về để sử dụng. Nhân thân của bị cáo rất xấu, tổng cộng 05 lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong đó có 02 tiền sự: năm 2013, bị Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đưa vào Trung tâm giáo dục dạy nghề 05-06 tập trung cai nghiện trong thời hạn 15 tháng theo Quyết định số 470/QĐ-UBND ngày 14.01.2013; năm 2015 bị Toà án nhân dân quận Thanh Khê đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục dạy nghề 05-06 trong thời hạn 15 tháng theo Quyết định số 158/2015/QĐ- TA ngày 11.11.2015 nên đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm. Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đề nghị là phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Do vậy, HĐXX thấy đối với bị cáo cần phải cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Song xét bị cáo lần đầu phạm tội, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. HĐXX sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của bộ luật hình sự để cân nhắc giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình.

Đối với người tên V, H đều chưa rõ lai lịch và thanh niên chưa rõ lai lịch có hành vi bán trái phép chất ma tuý cho H, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với toàn bộ chất ma tuý hoàn trả sau giám định (toàn bộ tang vật trong phong bì niêm phong số 220/GĐ- MT ngày 08.11.2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng) thì cần tịch thu tiêu hủy như ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

- Đối với 01 điện thoại di động màu đen có dòng chữ SAMSUNG có gắn thẻ sim số 0901.120.711 và 0935.383.012, imel 1: 353317096784120 và imel 2: 353318096784128 là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo Phan Văn H thì cần trả lại cho H cũng phù hợp.

- Đối với số tiền 1.000.000 đồng thu giữ của Phan Văn H là tiền cá nhân của H thì cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí: Theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án thì bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn H (Tên gọi khác: T) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

- Xử phạt: bị cáo Phan Văn H (Tên gọi khác: T) 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01.11.2018.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ chất ma túy còn lại sau khi giám định (toàn bộ tang vật trong phong bì niêm phong số 220/GĐ- MT ngày 08.11.2018 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Đà Nẵng).

- Trả lại cho Phan Văn H 01 điện thoại di động màu đen có dòng chữ SAMSUNG có gắn thẻ sim số 0901.120.711 và 0935.383.012, imel 1: 353317096784120 và imel 2: 353318096784128.

- Quy trữ đối với số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng của Phan Văn H để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ số vật chứng trên thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20.05.2019, hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu đang quản lý).

2. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14. Bị cáo Phan Văn H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về