Bản án 606/2019/HSST ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T.N, TỈNH T.N

BẢN ÁN 606/2019/HSST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố T.N mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 599/2019/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Nông Văn L, sinh ngày 09/3/1990; HKTT: xóm T, xã C.V, huyện T.K, tỉnh C.B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa : 12/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Nông Văn D, đã chết; con bà Ngân Thị X, sinh năm 1968; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; có vợ: Nông Thị H, sinh năm 1990, có 01 con sinh năm 2015.

Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi chứng kiến:

Ông Phạm Văn C, sinh năm 1965, vắng mặt. HKTT: Tổ C, phường T.Đ, TP T.N, tỉnh T.N

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11h ngày 03/8/2019, Nông Văn L đi bộ một mình đến khu vực ngã ba T.Đ thuộc tổ 1, phường T.Đ, thành phố T.N để tìm mua Heroine về sử dụng cho bản thân. Khi đi L có gọi điện thoại cho một người đàn ông tên L không quen biết hỏi mua 200.000 đồng heroine thì được người đàn ông này đồng ý. Khoảng 5’ sau, có một người đàn ông L không quen biết đến gặp và bán cho L 01 gói heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng với giá 200.000 đồng. Mua được gói heroine L cất vào trong túi quần bên phải phía trước đang mặc đi tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường T.Đ yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra L tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng, L khai nhận là heroine. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với L, niêm phong thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu hồng, bên trong có gắn sim Viettel số 0989.047.063; Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T.N tiến hành mở niêm phong, cân số chất bột màu trắng thu giữ của L có khối lượng 0,165 gam, niêm phong kí hiệu N1 gửi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số 1139/KL-KTHS ngày 11/8/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh T.N kết luận: chất bột màu trắng thu giữ của Nông Văn L gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng là 0,165 gam.

Tại bản cáo trạng số 592/CT-VKSTPTN ngày 22/10/2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T.N truy tố Nông Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa bị cáo Nông Văn L khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N trình bày lời luận tội đã giữ nguyên bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nông Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Nông Văn L từ đến tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: xử lý theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu N1, tịch thu của bị cáo L sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại phần lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T.N, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 11 giờ 25 phút ngày 03/8/2019, tại khu vực tổ 1, phường T.Đ, thành phố T.N, Nông Văn L đang có hành vi tàng trữ 0,165 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường T.Đ phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.N truy tố bị cáo Nông Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, ma túy còn là hiểm họa cho xã hội, phát sinh các tệ nạn xã hội, làm khánh kiệt về kinh tế, suy kiệt giống nòi, do đó Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết bài trừ tệ nạn này ra khỏi xã hội, bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn phạm tội. Hành vi của bị cáo phải xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo Điều 52 BLHS.

Theo xác minh tại địa phương: bị cáo sống phụ thuộc vào gia đình, không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu N1 không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu hồng có số Imel 1: 866346033980699, Imel 2: 866346033980681 kèm theo 01 sim có số thuê bao 0989047063 tình trạng đã qua sử dụng là công cụ của bị cáo sử dụng để liên lạc việc mua ma túy, do đó cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[5]. Về các vấn đề khác:

Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Mức án vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Nông Văn L khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực tổ 1, phường T.Đ, thành phố T.N. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T.N không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

[2]. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt Nông Văn L 18(mười tám) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2019.

Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[3]. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu N1, mặt sau phong bì có 02 dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.N và 02 chữ ký của Trần Đức Thủy, Vũ Quang Huy.

- Tịch thu của bị cáo L sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu hồng có số Imel 1: 866346033980699, Imel 2: 866346033980681 kèm theo 01 sim có số thuê bao 0989047063 tình trạng đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 27 ngày 14/10/2019 giữa Công an thành phố T.N và Chi cục thi hành án dân sự thành phố T.N).

[4]. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

[5]. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 606/2019/HSST ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:606/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về