Bản án 60/2018/HSST ngày 20/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NP, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 60/2018/HSST NGÀY 20/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã V, huyện NP, tỉnh Điện Biên; Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 59/2018/TLST-HS, ngày 14 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tẩn A P; Tên gọi khác: Tẩn A T; Sinh năm 1974, tại huyện S, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản K, xã V, huyện NP, tỉnh Điện Biên; Dân tộc: Dao; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 2/12; Nghề nghiệp: Làm nương; Họ tên cha: Tần Phù H (Đã chết); Họ tên mẹ: Chẻo Mẩy C (Tên gọi khác: Chẻo Mẩy C) (Đã chết); Anh chị em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; Vợ: Lý Thị A, sinh năm 1979: Hiện trú tại Bản K, xã V, huyện NP, tỉnh Điện Biên; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã B, huyện S, tỉnh Lai Châu, học hết lớp 2/12 bỏ học ở nhà phụ giúp gia đình. Từ năm 1996 đến năm 1998 tham gia nghĩa vụ quân sự, năm 2003 chuyển đến sinh sống tại xã NH, huyện NP, tỉnh Điện Biên và bắt đầu nghiện ma túy. Ngày 10/4/2008 bị TAND huyện MN xử phạt 32 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, năm 2010 chấp hành xong án phạt tù về địa phương và lấy vợ, sau đó theo vợ về làm ăn sinh sống tại xã Bản K, xã V, huyện NP, tỉnh Điện Biên cho đến nay. Ngày 17/5/2018 bị bắt tạm giữ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, sau đó bị tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Vào hồi 13 giờ 00 phút ngày 17/5/2018, tổ công tác Công an huyện NP phối hợp với Công an xã V, huyện NP, tỉnh Điện Biên làm nhiệm vị tại khu vực bản K, xã V, huyện NP, tỉnh Điện Biên phát hiện tại nhà Tẩn A P có biểu hiện vi phạm pháp luật. Tổ công tác vào nhà thì thấy P đang chuẩn bị hút thuốc phiện. Đấu tranh ban đầu P đã giao nộp cho tổ công tác 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất dẻo màu nâu đen, mùi hắc nghi thuốc phiện để ở trên giường cạnh bộ bàn đèn dùng để hút thuốc phiện. Sau đó P lấy trong ống tre trên gác bếp ra một gói nilon màu xanh và trong túi chiếc áo treo trong nhà 04 gói nilon (Trong đó 02 gói màu xanh, 02 gói màu vàng), tất cả các gói nilon trên bên trong đều có chứa chất nhựa déo màu nâu đen, có mùi hắc nghi thuốc phiện. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 01 (một) bộ bàn đèn tự tạo dùng để sử dụng thuốc phiện.

P khai nhận đó là nhựa thuốc phiện. Số nhựa thuốc phiện trên Tẩn A P mua của một người đàn ông dân tộc Mông, không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực bản D, xã V, huyện NP, tỉnh Điện Biên vào ngày 14/5/2018 với giá 450.000đ. Mục đích P tàng trữ trái phép chất ma túy trên là để sử dụng cho bản thân.

Trong quá trình điều tra bị cáo Tẩn A P thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

2. Các vấn đề khác:

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 18/5/2018 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NP xác định: 06 gói vật chứng nghi là nhựa thuốc phiện thu giữ của Tẩn A P có khối lượng là 35,48(Ba mươi năm phẩy bốn mươi T) gam, đã trích 2gam làm mẫu vất gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 504/GĐ-PC54 ngày 30/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất chất dẻo màu nâu đen được trích ra từ vật chứng thu giữ của Tẩn A P gửi giám định là chất ma túy: Loại Thuốc phiện. Thuốc phiện nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 117, Danh mục II, Nghị định 82/2013/NĐ-Cp ngày 19/07/2013. Khối lượng vật chứng thu giữ của Tẩn A P là 35,48gam.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số 35/CT-VKSNP ngày 12/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NP truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện NP để xét xử bị cáo Tẩn A P (Tên gọi khác: Tẩn A T) về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung 2017). Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Tẩn A P (Tẩn A T) từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) và Khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy 35,48gam nhựa thuốc phiện là vật chứng của vụ án (Đã trích 02 gam làm mẫu vật gửi giám định còn lại 33,48gam) được niêm phong trong 01(một) phong bì niêm phong của Công an huyện NP, tỉnh Điện Biên và 01 (một) bộ bàn đèn tự tạo.

Miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật đối với bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố là đúng, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NP, tỉnh Điện Biên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Vào Hồi 13 giờ 00 phút ngày 17/5/2018 tại Bản K, xã V, huyện NP, tỉnh Điện Biên, Tẩn A P đã có hành vi cất giấu trái phép 06 gói nhựa thuốc phiên có khối lượng 35,48gam trong nhà bị cáo. P khai nhận đó là nhựa thuốc phiện của mình mua về với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi đó của Tẩn A P là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật cần phải xử lý nghiêm. Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Điểm b khoản 1 Điều 249 quy định:

" Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

Do đó kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tẩn A P là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp; Phạm tội vì mục đích sử dụng cho nhu cầu của bản thân. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra. Vì vậy, khẳng định là: Bản cáo trạng số 35/CT-VKSNP ngày 12/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NP truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, nguyên nhân xuất phát từ động cơ, mục đích mua ma túy phục vụ nhu cầu bản thân. Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã B, huyện S, tỉnh Lai Châu, học hết lớp 2/12 bỏ học ở nhà phụ giúp gia đình. Từ năm 1996 đến năm 1998 tham gia nghĩa vụ quân sự, năm 2003 chuyển đến sinh sống tại xã NH, huyện NP, tỉnh Điện Biên và bắt đầu nghiện ma túy. Ngày 10/4/2008 bị TAND huyện MN xử phạt 32 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, năm 2010 chấp hành xong án phạt tù về địa phương và lấy vợ, sau đó theo vợ về làm ăn sinh sống tại xã Bản K, xã V, huyện NP, tỉnh Điện Biên cho đến nay. Ngày 17/5/2018 bị bắt tạm giữ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bản thân bị cáo chưa có tiền sự, tiền án (vì đã được xóa án tích đối với các bản án đã nêu trên) nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, không cai nghiện được và vẫn tiếp tục hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân, nên có thể khẳng định bị cáo có nhân thân xấu.

Bị cáo xuất thân trong gia đình lao động nhưng không chịu lao động, tu dưỡng bản thân mà nghiện ma túy. Bị cáo đã mua ma túy về tàng trữ sử dụng dần cho bản thân. Khi bị bắt bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, tại phiên toà bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Đây cũng là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác.

Vì vậy cần xử lý bị cáo thật nghiêm minh trước pháp luật, bằng biện pháp cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống xã hội đời thường một thời gian để bị cáo có điều kiện cai nghiện, cải tạo bản thân trở thành người có ích cho chính bị cáo và gia đình bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung:

Căn cứ vào khoản 5 Điều 249/BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) về hình phạt bổ sung là phạt tiền, HĐXX xét thấy gia đình bị cáo sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn; Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt này đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng vụ án:

Đối với 35,48gam nhựa thuốc phiện là vật chứng của vụ án (Đã trích 02gam làm mẫu vật gửi giám định, còn lại 33,48gam) được niêm phong trong 01(một) phong bì niêm phong của Công an huyện NP, tỉnh Điện Biên; 01 bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) điểm và Khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

[6]. Các vấn đề khác:

Bị cáo khai mua nhựa thuốc phiên của một người đàn ông dân tộc Mông nhưng không biết tên, địa chỉ của người đó ở đâu nên cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý theo quy định. Viện kiểm sát không truy tố, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về phần án phí: Tại phiên tòa bị cáo đề nghị HĐXX xét miễn án phí HSST cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, HĐXX xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn án phí HSST theo quy định.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 BLTTHS năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố: Bị cáo Tẩn A P (Tên gọi khác: Tẩn A T) phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2]. Áp dụng: Điểm b Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Tẩn A P (Tên gọi khác: Tẩn A T): 34 (Ba mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (17/5/2018).

[3]. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) và Khoản 1; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy 35,48gam nhựa thuốc phiện là vật chứng của vụ án (Đã trích 02gam làm mẫu vật gửi giám định còn lại 33,48gam) được niêm phong trong 01(một) phong bì niêm phong của Công an huyện NP, tỉnh Điện Biên; 01 bộ bàn đèn tự tạo; (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/8/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện NP, tỉnh Điện Biên).

[4]. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án ngày 30/12/2016, bị cáo Tẩn A P (Tẩn A T) được miễn án phí HSST theo quy định.

[5]. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 BLTTHS năm 2015, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 20/9/2018./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2018/HSST ngày 20/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về