Bản án 60/2017/DS-ST ngày 17/07/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM KỲ, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 60/2017/DS-ST NGÀY 17/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 27/2017/TLST- DS ngày 22 tháng 3 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2017/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 6 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V. Địa chỉ: Tầng 1-7, Tòa Thủ Đô, số 72, phố T, phường T, quận H, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Hồ Thị Bích H, sinh năm 1992. Trú tại: Số 77 đường T, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Huỳnh Thị Ngọc T, sinh năm 1972. Trú tại: Khối phố 5, phường T, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Hồ Thị Bích H trình bày:

Vào ngày 14-8-2015 Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V (gọi tắt là Công ty tài chính) có cho bà Huỳnh Thị Ngọc T vay số tiền 58.025.000 đồng, theo hợp đồng vay số 20150812-143002-0017 với lãi suất thỏa thuận 2.92%/tháng, mục đích vay là tiêu dùng cá nhân. Theo thỏa thuận hợp đồng bà T có trách nhiệm thanh toán tổng số tiền là 81.489.000 đồng bao gồm cả gốc và lãi, trả chậm trong 24 tháng, trong đó 23 tháng đầu trả mỗi tháng 3.396.000 đồng, tháng cuối cùng trả 3.381.000 đồng, kỳ thanh toán đầu tiên là 14-9-2015. Thực hiện hợp đồng Công ty tài chính đã giao đủ số tiền vay cho bà T, bà T chỉ thanh toán được 4 kỳ với số tiền 11.188.000 đồng, kể từ ngày 28-12-2015 bà T không thanh toán thêm kỳ nợ nào và đã vi phạm hợp đồng. Công ty tài chính đã nhiều lần nhắc nhở yêu cầu bà T tiếp tục thanh toán nợ nhưng không thành.

Nay Công ty tài chính khởi kiện yêu cầu bà Huỳnh Thị Ngọc T phải thanh toán toàn bộ khoản tiền nợ còn lại theo hợp đồng vay 20150812-143002-0017 ngày 14-8-2015 bao gồm khoản nợ đến hạn và nợ chưa đến hạn là 70.301.000 đồng, trong đó khoản nợ đến hạn là 66.920.000 đồng (tiền gốc là 51.711.045 đồng và lãi là 15.208.955 đồng) và nợ gốc chưa đến hạn là 3.381.000 đồng (gốc).

- Bị đơn bà Huỳnh Thị Ngọc T trình bày:

Bà thừa nhận có vay của Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V số tiền là 58.025.000 đồng, lãi suất 2,92%/tháng, bà có trách nhiệm thanh toán tiền nợ vay cả gốc và lãi là 81.489.000 đồng và thanh toán trả chậm trong vòng 24 tháng, trong đó 23 tháng đầu trả mỗi tháng 3.396.000 đồng, tháng cuối cùng trả 3.381.000 đồng. Bà trả được 4 kỳ với tổng số tiền là 11.188.000 đồng, sau đó vì kinh tế gia đình khó khăn nên chưa thanh toán được khoản nợ còn lại. Nay Công ty tài chính khởi kiện yêu cầu bà thanh toán toàn bộ khoản nợ còn lại bao gồm nợ trong hạn và nợ chưa đến hạn bà đồng ý, nhưng do hiện tại điều kiện làm ăn của bà quá khó khăn nên bà đề nghị trả dần khoản nợ trên theo phương án mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy trình tố tụng; việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Viện kiểm sát đề nghị: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng: Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V khởi kiện yêu cầu bà Huỳnh Thị Ngọc T thanh toán tiền nợ vay theo hợp đồng số 20150812-143002-0017 ngày 14-8-2015, căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo quy định tại Điều 1 Phần C điều khoản chung của hợp đồng  đã thỏa thuận trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì ngoài các biện pháp xử lý để thu hồi nợ VPBFC có quyền thực hiện những yêu cầu khác theo thỏa thuận hợp đồng. Do bà T vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Công ty tài chính có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án theo luật định.

2. Về nội dung: Ngày 14-8-2015 giữa Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V và bà Huỳnh Thị Ngọc T có ký hợp đồng vay số 20150812-143002-0017 theo đó bà T đã vay của Công ty tài chính số tiền vay là 58.025.000 đồng; lãi suất thỏa thuận 2,92%/tháng, mục đích vay để tiêu dùng cá nhân, thời hạn vay là 24 tháng tính từ ngày 14-8-2015, ngày thanh toán hàng tháng là ngày 14 hàng tháng, hình thức vay không có tài sản đảm bảo. Theo thỏa thuận tại hợp đồng bà Huỳnh Thị Ngọc T có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ khoản nợ gốc và lãi là 81.489.000 đồng, trong đó nợ gốc là 58.025.000 đồng và lãi là 23.464.000 đồng cho Công ty tài chính, trả chậm trong vòng 24 tháng, 23 tháng đầu trả mỗi tháng 3.396.000 đồng, tháng cuối cùng trả b3.381.000 đồng, thời gian trả bắt đầu từ ngày 14-9-2015. Thực hiện hợp đồng, Công ty tài chính đã giải ngân đủ số tiền vay cho bà T, bà T cũng đã thanh toán được 4 kỳ nợ với tổng số tiền là 11.188.000 đồng. Kể từ ngày 28-12-2015, bà T không thanh toán thêm khoản nợ nào cho Công ty tài chính như đã cam kết, nên theo quy định tại Điều 1 phần C điều khoản chung của hợp đồng, bà T đã vi phạm cam kết trả nợ do đó việc Công ty tài chính khởi kiện yêu cầu bà T thanh toán nợ là có căn cứ và đúng luật.

Xét yêu cầu thanh toán nợ của Công ty tài chính thấy rằng: Lãi suất vay hai bên thỏa thuận là 2,92%/tháng, lãi suất này cao hơn lãi suất theo quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, tuy nhiên theo quy định tại khoản 2 Điều 3 và khoản 2 Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010 thì “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” do đó việc thỏa thuận lãi suất giữa hai bên trong hợp đồng vay số 20150812-143002-0017 ngày 14-8-2015 là không trái quy định pháp luật. Mặc khác Công ty tài chính yêu cầu bà T phải thanh toán dứt điểm  khoản nợ còn lại là 70.301.000 đồng trong đó khoản nợ đến hạn là 66.920.000 đồng (tiền gốc là 51.711.045 đồng và lãi là 15.208.955 đồng) và nợ gốc chưa đến hạn là 3.381.000 đồng; Bà T đã vi phạm cam kết trả nợ, tại bản tự khai, biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay bà Huỳnh Thị Ngọc T thừa nhận nợ và đồng ý thanh toán toàn bộ khoản nợ còn lại bao gồm nợ đến hạn và nợ chưa đến hạn cho ngân hàng với tổng số tiền 70.301.000 đồng, nên có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà T xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết nợ nhưng không được Công ty tài chính chấp thuận. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên cho vay, Hội đồng xét xử buộc bà Huỳnh Thị Ngọc T phải thanh toán toàn bộ khoản nợ 70.301.000 đồng, trong đó gốc là 55.092.045 đồng và lãi là 15.208.955 đồng cho Công ty tài chính là đúng quy định tại Điều 280, khoản 1 Điều 466, Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Về án phí: Bà Huỳnh Thị Ngọc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; Điều 235 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 3, Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 280, khoản 1 Điều 466, Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Buộc bà Huỳnh Thị Ngọc T có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V tổng cộng số tiền vay còn nợ là 70.301.000đ (Bảy mươi triệu ba trăm lẻ một nghìn đồng), trong đó gốc là 55.092.045 đồng và lãi là 15.208.955 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Huỳnh Thị Ngọc T không thanh toán số tiền còn nợ trên, thì hàng tháng bà T còn phải chịu thêm tiền lãi chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị Ngọc T phải chịu là 3.515.000đ (Ba triệu năm trăm mười lăm nghìn đồng).

Hoàn lại cho Công ty tài chính TNHH Một thành viên Ngân hàng V số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.718.898 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002629 ngày 21-3-2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 17-7-2017).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

329
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2017/DS-ST ngày 17/07/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:60/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Kỳ - Quảng Nam
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về