Bản án 598/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 598/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 597/2019/HSST, ngày 22 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 611/2019/QĐXXST-HS ngày 28/10/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Duy H, sinh ngày 8/8/1975; Tên gọi khác: Không;

Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 2, phường P, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Nguyễn Duy H (đã chết) và con bà: Nguyễn Thị G, sinh năm 1938; Gia đình có 6 anh chị em, bị cáo là con thứ năm; Có vợ là Nguyễn Thị N, sinh năm 1967 ( đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2001.

Tiền án: Tại bản án số 116/2018/HSST ngày 26/3/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 15 tháng tù giam, về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong án phạt tù ngày 5/4/2019.

Tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 15/12/2005 Ủy ban nhân dân phường P, thành phố Thái Nguyên ra Quyết định giáo dục tại xã, phường đối với H trong thời hạn 3 tháng.

Ngày 7/11/2005 bị Công an phường P, thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính 125.000đồng, về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 15/01/2006 bị Công an phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên phạt vi phạm hành chính 125.000 đồng, về hành vi: “Trộm cắp vặt”.

Tại bản án số 93/2007/HSST ngày 25/5/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, 15 tháng thử thách, về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã chấp hành xong ngày 30/8/2007.

Ngày 10/5/2012 Ủy ban nhân dân thành phố Thái Nguyên ra Quyết định về việc đưa người nghiện ma túy vào chữa bênh, lao động, học tập tại Trung tâm Chữa bệnh- Giáo dục- Lao động xã hội thành phố Thái Nguyên đối với H trong thời hạn 24 tháng. Đã chấp hành xong ngày 23/5/2014.

Hiện bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Nguyên từ ngày 17/9/2019 đến nay.

( Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:Bà Nguyễn Thị H Địa chỉ: Tổ 2, phường P, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên ( Có mặt tại phiên tòa) 

Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1961 ( Vắng mặt tại phiên tòa) HKTT: Tổ 3, phường Túc D, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

2. Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1958 ( Vắng mặt tại phiên tòa) HKTT: Tổ 02, phường P, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 8 giờ 20 phút, ngày 17/9/2019, tổ công tác của Công an phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực đường Hoàng Văn Thụ, thuộc tổ 20 , phường H, thành phố Thái Nguyên phát hiện 01 nam thanh niên điều khiển xe đạp có biểu hiện liên quan đến ma túy, tổ công tác tiến hành kiểm tra. Nam thanh niên tự khai tên là Nguyễn Duy H. H tự giác giao nộp 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột dang cục màu trắng từ túi quần phía sau bên trái (H khai là Heroin của H). Tổ công tác phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên đã tiến hành niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Ngoài ra còn thu giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips và 01 xe đạp mini nữ.

Tiến hành cân số chất màu trắng thu giữ được của Nguyễn Duy H ngày 17/9/2019 có khối lượng 0,105 gam và lấy mẫu gửi giám định ký hiệu H.

Tại bản Kết luận giám định số 1301/K-HTHS ngày 25/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột mầu trắng trong phong bì ký hiệu H gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng là 0.105 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Duy H khai nhận: Khoảng 8 giờ, ngày 17/9/2019, H điều khiển xe đạp từ nhà vừa đi vừa gọi vào số điện thoại 0389289600 cho 01 một người đàn ông tên Hà (hay gọi là Hà Sơn) hỏi mua 100.000đồng ma túy, Hà hẹn H ra quảng trường Võ Nguyên Giáp để giao ma túy, khi đến nơi H đưa cho Hà 100.000 đồng, Hà đưa H vào túi quần 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chất bột dạng cục màu trắng, H cho vào túi quần phía sau bên trái đang mặc đi về đến khu vực đường Hoàng Văn Thụ, thuộc tổ 20, phường H, thành phố Thái Nguyên thì bị Tổ công tác phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 589/CT-VKSTPTN ngày 21/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phó Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy H về tội “Tàng trữ trái phép chát ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; BLHS 2015 xử phạt: bị cáo Nguyễn Duy H từ 24 đến 30 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo H.

- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015 xử lý vật chứng theo quy định.

- Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo H pH nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận bị cáo H không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo H nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố Thái Nguyên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Khong 8 giờ 20 phút, ngày 17/9/2019, tại tổ 20, phường H, thành phố Thái Nguyên, Nguyễn Duy H đang có hành vi tàng trữ 0,105 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Túc duyên, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Duy H đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 BLHS quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c. Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam ”.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong án phạt tù ngày 5/4/2019 chưa được xóa án tích lại phạm tội mới với lỗi cố ý nên bị cáo pH chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo H chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cần áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Duy H 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[7] Vật chứng của vụ án:

Tch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy và Phạm Anh Tuấn cùng 02 dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

Tch thu sung quỹ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Philips vỏ màu đen, số Imei 1: 865008034015633, số Imei 2: 865008034015641 mà bị cáo dùng để phạm tội.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, biên bản giao nhận vật chứng số 38 ngày 24/10/2019

[8] Án phí: Bị cáo H chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, H khai mua của một người đàn ông H (sau xác định là Trần Ngọc H, sinh năm 1982, HKTT: Tổ 15, phường T, thành phố Thái Nguyên). Quá trình điều tra Hà không thừa nhận đã bán ma túy cho H. Do chưa đủ căn cứ Hà đã bán ma túy cho H nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đi với chị Nguyễn Thị H là người cho H mượn xe đạp để đi lại, H không biết việc H đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã trả chiếc xe đạp cho chị H quản lý, sử dụng và không xử lý đối với H.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự;

1. Xử phạt Nguyễn Duy H 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 17/9/2019.

2. Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Duy H 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 :

Tch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy và Phạm Anh Tuấn cùng 02 dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

Tch thu sung quỹ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Philips vỏ màu đen, số Imei 1: 865008034015633, số Imei 2: 865008034015641.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, biên bản giao nhận vật chứng số 38 ngày 24/10/2019

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí buộc bị cáo Nguyễn Duy H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 598/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:598/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về