Bản án 59/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 59/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 60/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Trần Ngọc H, sinh 22/10/1997; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: T, thị trấn Í, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Trần Văn T, sinh 1971 và bà Phạm Thị H, sinh 1974; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/02/2021 đến ngày 11/02/2021 bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên toà.

2. Trịnh A T, sinh 16/10/1996; tại: huyện Chương Mỹ, TP. Hà Nội. Nơi cư trú: T, thị trấn Í, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Trịnh Văn K, sinh 1970 và bà Dương Thị T, sinh 1972; vợ Lò Thị H, sinh 1996, bị cáo chưa có con; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/02/2021 đến ngày 11/02/2021 bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên toà.

3. Trịnh Hoài S, sinh 13/9/1996; tại: huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: T, thị trấn Í, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Trịnh Văn H, sinh 1973 và bà Lê Thị H, sinh 1974; vợ Lường Thị H, sinh 2000 và 01 con, sinh năm 2020; tiền án: không; tiền sự:

không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 08/02/2021 đến ngày 11/02/2021 bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên toà.

4. Vũ Ngọc G, sinh 02/3/1992; tại: huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình. Nơi thường trú: T, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình; Nơi tạm trú: T, thị trấn Í, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Vũ Ngọc H, sinh 1964 và bà Nguyễn Thị B, sinh 1965; vợ Trần Thị H, sinh 1994, bị cáo chưa có con; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 08/02/2021 đến ngày 10/3/2021 bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên toà.

5. Tạ Ngọc H, sinh 07/8/1994; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: T, thị trấn Í, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Tạ Ngọc Đ, sinh 1969 và bà Cao Thị Q, sinh 1966; vợ Nguyễn Thị T Thuỳ, sinh 1995 và 02 con, con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: ngày 17/01/2013 bị Công an huyện M xử lý vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”; bị cáo bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 08/02/2021 đến ngày 26/02/2021 bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 07/02/2021, Trần Ngọc H mang theo 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 36 quân đi bộ đến quán điện tử của Hoàng Duy H ở tiểu khu, thị trấn Í, huyện M chơi; tại đây H rủ Trịnh A T, Trịnh Hoài S và Vũ Ngọc G đánh bạc. Nghe H nói xong, cả bốn người cùng đi vào phòng kho phía trong quán điện tử chơi, H mang 01 bộ bài tú lơ khơ ra cùng nhau đánh bạc bằng hình thức đánh ba cây (sử dụng bộ bài tú lơ khơ gồm 36 quân bài, người cầm chương sẽ chia cho mỗi người 03 quân bài và so điểm với người cầm chương để xác định số tiền phải trả cho người thắng) thua trả bằng tiền mặt tại chỗ là 20.000VNĐ hoặc 40.000VNĐ/01 lượt chơi; 04 người đang chơi được khoảng 30 phút thì Tạ Ngọc H đến và xin được chơi cùng bằng hình thức đặt cược vào một bài bất kỳ. Cả 05 người chơi đánh bạc đến 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về HS-KT-MT Công an huyện M phát hiện, bắt quả tang, thu giữ, kiểm kê, niêm phong vật chứng gồm: số tiền 5.300.000VNĐ (trong đó H 1.450.000VNĐ, S 1.950.000VNĐ, T 830.000VNĐ, G 820.000VNĐ và H 250.000VNĐ); 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 36 quân bài.

Ngày 08/02/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M tiến hành trưng cầu giám định toàn bộ số tiền 5.300.000VNĐ.

Ngày 25/02/2021 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kết luận giám định số 502, Kết luận: “Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật. Hoàn lại toàn bộ số tiền gửi giám định”.

Thực hiện điều tra, xác minh với Hoàng Duy H chủ quán điện tử nhưng H không biết việc các bị cáo đã đánh bạc trái phép tại phòng kho của H, H cũng không đề nghị, yêu cầu gì.

Bản cáo trạng số 29/CT-VKS-ML ngày 23/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố các bị cáo Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S, Vũ Ngọc G và Tạ Ngọc H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình là do nhận thức pháp luật hạn chế nên đã vi phạm pháp luật, bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố các bị cáo Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S, Vũ Ngọc G và Tạ Ngọc H phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt:

Trần Ngọc H từ 12 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 24 đến 36 tháng;

Trịnh A T từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 đến 24 tháng;

Trịnh Hoài S từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 đến 24 tháng;

Vũ Ngọc G từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 đến 24 tháng;

Tạ Ngọc H từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 đến 18 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 5.300.000VNĐ; tịch thu và tiêu hủy: 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 36 quân bài. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326; buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S, Vũ Ngọc G tự bào chữa, tranh luận: nhất trí với cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M về hành vi phạm tội; xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được cải tạo tại địa phương.

Bị cáo Tạ Ngọc H tự bào chữa, tranh luận: nhất trí với cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M về hành vi phạm tội; xin Hội đồng xét xử khoan hồng xin hưởng hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà là thống nhất, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Khoảng 20 giờ ngày 07/02/2021, Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S, Vũ Ngọc G và Tạ Ngọc H đều đến quán điện tử của Hoàng Duy H ở tiểu khu, thị trấn Í, huyện M; tại đây cả 05 người cùng đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh ba cây (được, thua bằng tiền) đến 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về HS-KT-MT Công an huyện M phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tổng số tiền các bị cáo đánh bạc trái phép là 5.300.000VNĐ; theo kết luận giám định số 502, ngày 25/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Kết luận: “Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật”. Như vậy, các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi đánh bạc trái phép với tổng số tiền là 5.300.000VNĐ là xâm phạm trật tự công cộng, có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S, Vũ Ngọc G và Tạ Ngọc H phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự, tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi: các bị cáo là người dân lao động đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, tác hại của việc đánh bạc trái phép nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, vì thích hưởng thụ từ việc làm bất chính, mong chờ vào sự may rủi, đỏ đen các bị cáo chưa tu chí làm ăn lương thiện giúp gia đình phát triển kinh tế mà lại sa vào tệ nạn xã hội đã cố ý cùng nhau thực hiện hành vi đánh bạc trái phép, chơi được, thua bằng tiền nhằm tư lợi, sát phạt, tước đoạt tiền bạc, tài sản của nhau. Tuy nhiên, giữa các bị cáo không có sự phân công, không có sự cấu kết chặt chẽ nên chưa được coi là có tổ chức; theo quy định tại các Điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự thì các bị cáo là đồng phạm giản đơn, trong đó Trần Ngọc H trực tiếp khởi xướng (rủ), chuẩn bị dụng cụ (bài lơ khơ) đánh bạc trái phép nên giữ vai trò chính trong vụ án; các bị cáo Trịnh A T, Trịnh Hoài S, Vũ Ngọc G tự nguyện tham gia đánh bạc trái phép nên giữ vai trò người thực hành trực tiếp; bị cáo Tạ Ngọc H là người có số tiền ít nhất đã tham gia đặt tiền cược nên giữ vai trò đồng phạm thứ yếu nhất trong vụ án. Hành vi đánh bạc trái phép của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, với lỗi cố ý trực tiếp các bị cáo đã xâm phạm trật tự công cộng, xâm phạm quyền tổ chức đánh bạc của Nhà nước; tội phạm các bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng, số tiền không lớn nhưng đã hoàn thành, hậu quả xảy ra không những gây mất trật tự trị an tại địa phương mà còn ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của gia đình các bị cáo, là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn gia đình, những loại tội phạm khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết các bị cáo phạm tội, đề nghị hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (sau khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt). Do đó, xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo là người dân lao động, nhận thức pháp luật hạn chế, bị cáo Hưng là cháu của gia đình có công với đất nước (ông Trần Văn B là ông nội H, đã được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba). Do đó, xét cho bị cáo H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: các bị cáo không có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, có đơn xin giảm nhẹ hình phạt được chính quyền địa phương xác nhận, có nơi cư trú cụ thể rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên cho các bị cáo Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S, Vũ Ngọc G hưởng sự khoan hồng của pháp luật theo khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo tự cải tạo tại địa phương và ấn định thời gian thử thách; riêng bị cáo Tạ Ngọc H xét thấy là người có tài sản giá trị, vai trò đồng phạm thứ yếu nên căn cứ khoản 1 Điều 35 Bộ luật Hình sự áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng nhằm răn đe, phòng ngừa giáo dục chung cho các hành vi tương tự xảy ra ở địa phương hiện nay.

[6] Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa và tài liệu trong hồ sơ xác định các bị cáo H, T, S, G là lao động tự do thu nhập thấp, không có tài sản giá trị; bị cáo Tạ Ngọc H đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: các bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo và phạt tiền, không có căn cứ cho thấy các bị cáo trốn hoặc tiếp tục phạm tội do vậy các bị cáo được tại ngoại.

[8] Đối với Hoàng Duy H chủ quán điện tử nơi các bị cáo đánh bạc nhưng không có tài liệu chứng cứ chứng minh việc Hà biết các bị cáo đã đánh bạc, H cũng không đề nghị, yêu cầu gì nên không có cơ sở xử lý theo vụ án.

[9] Vật chứng của vụ án:

Số tiền 5.300.000VNĐ các bị cáo đã sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; căn cứ điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

01 bộ bài gồm 36 quân bài thu giữ với H là vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: không có tài liệu xác định các bị cáo là đối tượng được giảm, miễn nộp tiền án phí nên buộc các bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S và Vũ Ngọc G.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Tạ Ngọc H.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đối với bị cáo Trần Ngọc H.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S, Vũ Ngọc G và Tạ Ngọc H phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt:

- Phạt bị cáo Trần Ngọc H 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án 26/5/2021.

- Phạt bị cáo Trịnh A T 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 (Mười tám) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án 26/5/2021.

- Phạt bị cáo Trịnh Hoài S 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 (Mười tám) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án 26/5/2021.

- Phạt bị cáo Vũ Ngọc G 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 18 (Mười tám) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án 26/5/2021.

- Phạt bị cáo Tạ Ngọc H số tiền 20.000.000VNĐ (Hai mươi triệu đồng).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Giao các bị cáo Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S và Vũ Ngọc G cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Ít Ong, huyện M, tỉnh Sơn La giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

4. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 5.300.000VNĐ (Năm triệu ba trăm nghìn đồng) trong đó: Trần Ngọc H 1.450.000VNĐ, Trịnh A T 830.000VNĐ, Trịnh Hoài S 1.950.000VNĐ, Vũ Ngọc G 820.000VNĐ, Tạ Ngọc H 250.000VNĐ.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 36 quân bài của Trần Ngọc H.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/5/2021 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Sơn La).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: buộc các bị cáo Trần Ngọc H, Trịnh A T, Trịnh Hoài S, Vũ Ngọc G và Tạ Ngọc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ (Hai trăm nghìn đồng) đối với một bị cáo.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/5/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:59/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về