Bản án 59/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 59/2020/HS-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 65/2020/TLST - HS ngày 24 tháng 8 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2020/QĐXXST - HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Vi Văn H - Sinh năm 1988 tại Huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: Bản N, xã M, Huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: V Nam; con ông: Vi Kim H - Sinh năm 1950; con bà: Lương Thị V - Sinh năm 1952; trú tại: Bản N, xã M, Huyện Q, tỉnh Nghệ An; Vợ: Vi Thị M - Sinh năm 1990; trú tại: Bản N, xã M, Huyện Q, tỉnh Nghệ An; Con: Có 03 người, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08 tháng 6 năm 2020 đến nay. Có mặt.

Người làm chứng: Anh Lương Văn Khương - Sinh năm 1986.

Trú tại: Bản Hoa Tiến 1, xã Châu Tiến, Huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 07 tháng 6 năm 2020, Vi Văn H, trú tại: Bản N, xã M, Huyện Q, tỉnh Nghệ An lấy số điện thoại của một người đàn ông không quen biết với bạn của H và điện cho người này hỏi mua ma túy sử dụng (H là đối tượng nghiện chất ma túy). Khi gọi điện, H hẹn anh ta đem ma túy đến khu vực cánh đồng thuộc bản N, xã M bán cho H, anh ta đồng ý. Hai người đến điểm hẹn gặp nhau, Vi Văn H đưa cho người này số tiền 500.000 đồng, anh ta đưa cho H01 gói hê rô in. Sau khi mua được hê rô in, Vi Văn H lấy ra một ít sử dụng, số còn lại dấu ở bờ ruộng cạnh đó rồi đi về nhà. Sáng ngày 08 tháng 6 năm 2020, Vi Văn H đi đến xã Châu Tiến, Huyện Quỳ Châu chơi, đến chiều cùng ngày, H nhờ anh Lương Văn Khương trú tại bản Hoa Tiến 1, xã Châu Tiến, Huyện Quỳ Châu dùng xe máy chở về nhà. Khi anh Khương chở H về đến bản Na Phày, xã M, huyện Q thì H rủ anh Khương ra khu vực sông gần chỗ H cất dấu ma túy để tắm. Trong lúc tắm, Vi Văn H đi đến bờ ruộng lấy gói ma túy đã cất dấu trước đó. Sau khi tắm xong, H cầm gói hê rô in ở tay trái rồi tiếp tục nói anh Khương chở về nhà. Khi anh Khương chở Vi Văn H về đến đường làng thuộc bản N, xã M thì bị tổ công tác Công an Huyện Q phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Vi Văn H 01 gói chất bột màu trắng (nghi là hê rô in).

Bản kết luận giám định số: 836/KL - PC09 (Đ2 - MT) ngày 14/6/2020 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An kết luận:

“Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn H gửi tới giám định là ma túy (Hê rô in). Số chất bột màu trắng (01 gói) thu giữ của Vi Văn H có khối lượng 0,85 gam (Không phẩy tám mươi lăm gam).

Tại phiên tòa, bị cáo Vi Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, cụ thể:

Khoảng 21 giờ ngày 07 tháng 6 năm 2020, Vi Văn H, trú tại: Bản N, xã M, Huyện Q, tỉnh Nghệ An lấy số điện thoại của một người đàn ông không quen biết với bạn của H và điện cho người này hỏi mua ma túy sử dụng (H là đối tượng nghiện chất ma túy). Khi gọi điện, H hẹn anh ta đem ma túy đến khu vực cánh đồng thuộc bản N, xã M bán cho H, anh ta đồng ý. Hai người đến điểm hẹn gặp nhau, Vi Văn H đưa cho người này số tiền 500.000 đồng, anh ta đưa cho H 01 gói hê rô in. Sau khi mua được hê rô in, Vi Văn H lấy ra một ít sử dụng, số còn lại dấu ở bờ ruộng cạnh đó rồi đi về nhà. Sáng ngày 08 tháng 6 năm 2020, Vi Văn H đi đến xã Châu Tiến, Huyện Quỳ Châu chơi, đến chiều cùng ngày, H nhờ anh Lương Văn Khương trú tại bản Hoa Tiến 1, xã Châu Tiến, Huyện Quỳ Châu dùng xe máy chở về nhà. Khi anh Khương chở H về đến bản Na Phày, xã M, Huyện Q thì H rủ anh Khương ra khu vực sông gần chỗ H cất dấu ma túy để tắm. Trong lúc tắm, Vi Văn H đi đến bờ ruộng lấy gói ma túy đã cất dấu trước đó. Sau khi tắm xong, H cầm gói hê rô in ở tay trái rồi tiếp tục nói anh Khương chở về nhà. Khi anh Khương chở Vi Văn H về đến đường làng thuộc bản N, xã M thì bị tổ công tác Công an Huyện Q phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Vi Văn H01 gói hê rô in có khối lượng là 0,85 gam. Mục đích của bị cáo tàng trữ ma túy là để sử dụng.

Đối với người đàn ông có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Vi Văn H (theo lời khai của H) do không xác minh được họ tên, địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Đối với anh Lương Văn Khương dùng xe máy chở Vi Văn H về nhà nhưng anh Khương không biết việc H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong người nên hành vi không cấu thành tội phạm.

Cáo trạng số 66/CT - VKS - HS, ngày 21/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Vi Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Q tuyên bố bị cáo Vi Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vi Văn H từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù; đề nghị xử lý vật chứng; miễn phạt tiền bổ sung cho bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Vi Văn H không có ý kiến tranh luận hay đối đáp với quan điểm của kiểm sát viên, chỉ xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo cải tạo tốt, sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

(1). Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, của Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố, thư ký phiên tòa thực hiện đứng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

(2). Về nội dung vụ án: Khoảng 21 giờ ngày 07 tháng 6 năm 2020, Vi Văn H, trú tại: Bản N, xã M, Huyện Q, tỉnh Nghệ An lấy số điện thoại của một người đàn ông không quen biết với bạn của H và điện cho người này hỏi mua ma túy sử dụng (H là đối tượng nghiện chất ma túy). Khi gọi điện, H hẹn anh ta đem ma túy đến khu vực cánh đồng thuộc bản N, xã M bán cho H, anh ta đồng ý. Hai người đến điểm hẹn gặp nhau, Vi Văn H đưa cho người này số tiền 500.000 đồng, anh ta đưa cho H01 gói hê rô in. Sau khi mua được hê rô in, Vi Văn H lấy ra một ít sử dụng, số còn lại dấu ở bờ ruộng cạnh đó rồi đi về nhà. Sáng ngày 08 tháng 6 năm 2020, Vi Văn H đi đến xã Châu Tiến, Huyện Quỳ Châu chơi, đến chiều cùng ngày, H nhờ anh Lương Văn Khương trú tại bản Hoa Tiến 1, xã Châu Tiến, Huyện Quỳ Châu dùng xe máy chở về nhà. Khi anh Khương chở H về đến bản Na Phày, xã M, Huyện Q thì H rủ anh Khương ra khu vực sông gần chỗ H cất dấu ma túy để tám. Trong lúc tám, Vi Văn H đi đến bờ ruộng lấy gói ma túy đã cất dấu trước đó. Sau khi tám xong, H cầm gói hê rô in ở tay trái rồi tiếp tục nói anh Khương chở về nhà. Khi anh Khương chở Vi Văn H về đến đường làng thuộc bản N, xã M thì bị tổ công tác Công an huyện Q phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Vi Văn H 01 gói hê rô in có khối lượng là 0,85 gam. Mục đích của bị cáo tàng trữ ma túy là để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

(3). Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm trực tiếp đến sự quản lý độc quyền của nhà nước về chất gây nghiện, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nòi giống của con người, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo ý thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm nhằm thỏa mãn cơn nghiện thấp hèn của bản thân. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Vì vậy cần xét xử nghiêm và lên một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và biện pháp cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để bị cáo có điều kiện đi cai nghiện, cải tạo bản thân thành người có ích cho gia đình, xã hội và răn đe, phòng ngừa chung tình trạng tội phạm về ma túy đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây trên địa bàn Huyện miền núi, biên giới huyện Q. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo khai báo thành khẩn. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của nhà nước.

(4). Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đề nghị xử phạt bị cáo Vi Văn H từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm đối với bị cáo là hợp lý.

(5). Về hình phạt bổ sung: Tại khoản khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cẩm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, ”. Do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản gì giá trị để đảm bảo cho việc thi hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

(6). Về vật chứng: Vật chứng thu giữ của bị cáo là 01 gói hê rô in có tổng khối lượng 0,85 gam (Không phẩy tám mươi lăm gam). Quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an huyện Q đã lấy 0,2 gam hê rô in đi giám định và đã sử dụng hết trong quá trình giám định nên hội đồng xét xử không xem xét. Vật chứng còn lại gồm 0,65 gam (Không phẩy sáu mươi lăm gam) hê rô in. Đây là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Các mảnh bao ni lông màu xanh và vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu thu giữ của Vi Văn H không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với người đàn ông có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Vi Văn H (theo lời khai của H) do không xác minh được họ tên, địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Đối với anh Lương Văn Khương dung xe máy chở Vi Văn H về nhà nhưng anh Khương không biết việc H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong người nên hành vi không cấu thành tội phạm.

(7). Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố Vi Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Phạt Vi Văn H - 18 tháng tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 08/6/2020.

- Căn cứ điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy một phong bì thư bưu điện được niêm phong nguyên vẹn, bên trong đựng 0,65 gam (Không phẩy sáu mươi lăm gam) hê rô in; các mảnh bao ni lông màu xanh và vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu thu giữ của Vi Văn H.

Chi tiết được ghi cụ thể trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 28 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan điều tra Công an Huyện Q với Chi cục thi hành án dân sự Huyện Q, tỉnh Nghệ An.

- Căn cứ vào điều 135; khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Vi Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo Vi Văn H có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về