Bản án 587/2020/HS-ST ngày 02/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 587/2020/HS-ST NGÀY 02/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 02 tháng 11 năm 2020, tại trụ Tòa án nhân dân Thành phố B đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 557/2020/HSST ngày 06/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 583/2020/QĐXXST- HS ngày 16/10/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, Sinh năm 1992 tại Đ.

Nơi đăng ký thường trú: ấp 4, xã Tam An, huyện Long Thành, Đ; Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 07/6/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành ra quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc thời gian 16 tháng. Bị can chấp hành xong ngày 16/6/2020. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: Lớp 04/12. - Nghề nghiệp: Phụ hồ. Họ tên cha: Nguyễn Văn H, sinh năm 1967 (còn sống). Họ tên mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1964 (còn sống).

Hiện bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Nguyễn Thị Ngọc Ch, sinh năm 1993. Bị can có 01 con sinh năm 2012 (là con của T với chị Đào Thị Bích T, sinh năm 1982, trước đó sống chung như vợ chồng với T). Bị can bị bắt quả tang ngày 21/6/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Thành phố B, tỉnh Đ.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Vào lúc 10 giờ 45 phút ngày 21/6/2020, T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 69F1-393.69 chở chị Nguyễn Thị Ngọc Ch là người sống chung như vợ chồng với T) đến gần khu vực nhà máy “Mũ” thuộc xã Long Đức, huyện Long Thành, tỉnh Đ. T dừng xe và nói Ch đứng chờ, rồi T đi gặp một người (không rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng), mục đích để sử dụng. Sau khi mua ma túy, T cầm gói ma túy trên tay phải rồi điều khiển xe chở Ch về nhà.

Đến khoảng 11 giờ 30 cùng ngày, khi T đang điều khiển xe mô tô biển số 69F1-393.69 chở Ch đi đến đoạn đường nội bộ thuộc tổ 7, khu phố Long Khánh 3, phường Tam Phước, Thành phố B thì bị Công an phường Tam Phước kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) gói nylon được hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, có chữ ký của Nguyễn Minh T và hình dấu mộc tròn của Công an phường Tam Phước.

- 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh xám biển số 69F1- 393.69 thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị Ngọc Ch. Xét thấy, chị Ch không biết việc Nguyễn Minh T sử dụng tài sản vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố B đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Ngọc Ch.

Tại Kết luận giám định số 1271/KLGĐ-PC09 ngày 25/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,2686 gam, loại: Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 563/CT/VKS-BH ngày 01/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; đề xuất áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Không có tình tiết tăng nặng, để xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T mức án từ 16 (mười sáu) tháng tù giam đến 18 (mười tám) tháng tù giam.

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố B tuyên tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi pham tội và thống nhất với nội dung truy tố của bản cáo trạng, ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là hành vi trái với quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay, bị cáo T đã khai nhận Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 21/6/2020, tại đoạn đường nội bộ thuộc tổ 7, khu phố Long Khánh 3, phường Tam Phước, Thành phố B, tỉnh Đ, Nguyễn Minh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2686 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an phường Tam Phước phát hiện, bắt quả tang. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Minh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B đã truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác; hành vi này đang gây nên một hệ lụy xấu về tương lai trong giới thanh niên trẻ ngày nay. Bản thân bị cáo có tuổi đời còn rất trẻ, bị cáo cũng nhận thức được rất rõ hành vi tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm.

bởi trước đó bị cáo cũng đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị đưa vào cơ sở cai nghiệm bắt buộc đã được giáo dục cải tạo và giúp cai nghiện nhưng sau khi ra khỏi cơ sở giáo dục bị cáo lại tiếp tục tái nghiện và đề có ma túy nhằm thỏa mãn cơn nghiện bị cáo đã tìm mua ma túy, tàng trữ để sử dụng dẫn đến hậu quả là phải đứng trước Tòa ngày hôm nay để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi tàng trữ mà mình đã thực hiện. Do đó, Hội đồng xét xử đánh giá bị cáo là đối tượng có ý thức chấp hành pháp luật kém, vì vậy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, cải tạo giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình phạt đối với bị cáo, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo T thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn, hối cải về hành vi đã thực hiện, chưa có tiền án, tiền sự. Đây là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về áp dụng điều luật: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Về mức hình phạt:: Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 18 (mười tám) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 21/06/2020.

Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số 1271 ngày 25/06/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ (không mở niêm phong), là số lượng ma túy còn lại sau giám định.

(Những vật chứng này được thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày06/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B).

Về án phí: buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 587/2020/HS-ST ngày 02/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:587/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về