Bản án 58/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN – TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 58/2019/HS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2019/TLST-HS, ngày 11 tháng 10 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HS, ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

TỐNG VĂN T - sinh ngày 01/10/1965 tại Bắc Kạn; nơi ĐKHKTT: tổ 02, phường Đ, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tống Văn A và bà Ngô Thị T (đều đã chết); có vợ là: Vũ Thị M và 02 (hai) con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Tống Văn T sinh ra và lớn lên tại thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn, được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 07/10 thì nghỉ học ở nhà lao động tự do. Nghiện chất ma túy từ năm 2010 cho đến nay. Năm 2013 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn thời hạn 12 tháng.

Bị bắt, tạm giữ từ ngày 01/6/2019 đến ngày 10/6/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, nay tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21h30ngày 01/6/2019 tại khu vực tổ 3, phường Đ, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy, Công an thành phố Bắc Kạn phát hiện đối tượng Tống Văn T điều khiển một chiếc xe đạp màu xanh có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra đối tượng, thu giữ tại ống tay áo bên phải đang mặc của Tống Văn T có 01 gói được gói bằng giấy lịch một mặt màu đỏ một mặt màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng có khối lượng 0,15 gam (mẫu gửi giám định M1). Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu đen xám đã qua sử dụng bên trong có gắn 01 sim diện thoại Viettel, 01 xe đạp màu xanh ký hiệu DT22037 và số tiền Việt Nam 40.000 đồng.

Sau đó Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét tại nhà ở của Tống Văn T tại tổ 02, phường Đ, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn nhưng không phát hiện, tạm giữ đồ vật, tài liệu gì.

Quá trình điều tra, Tống Văn T khai nhận: khoảng 20 giờ ngày 01/6/2019, tại khu vực tổ 02, phường Đ, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn, T hỏi mượn chiếc xe đạp màu xanh của anh Lê Hồng L, sinh năm 1971, trú tại tổ K, phường H, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn để đi mua ma túy về sử dụng, nhưng T chỉ nói với anh L là mượn xe đi có chút việc. Sau khi mượn được xe, T một mình điều khiển xe đạp đi đến khu vực bến xe khách tỉnh BK thuộc tổ 9B, phường Đ, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ được 01 gói ma túy (heroine) với số tiền 200.000 đồng. Sau đó T cất giấu gói ma túy này vào trong ống tay áo bên phải đang mặc và tiếp tục điều khiển xe đạp về đến khu vực tổ 3, phường Đ, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn thì bị Công an bắt cùng vật chứng.

Tại kết luận giám định số 88/KTHS - MT ngày 06/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,150 gam (Không phẩy một năm không gam).

Tại bản cáo trạng số: 46/CT-VKSTPBK, ngày 09 tháng 10 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với bị cáo Tống Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, điều 249/ Bộ luật Hình sự.

* Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Tại phiên toà:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo T. Đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tống Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt chính: Đề nghị áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38, điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS: xử phạt bị cáo T từ 12 tháng đến 15 tháng tù;

- Hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo T.

- Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 47/BLHS và Điều 106/Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì kí hiệu T88, 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì kí hiệu M2; Tạm giữ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ màu đen xám và số tiền: 40.000đ (Bốn mươi nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án cho bị cáo T.

* Bị cáo T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như viện kiểm sát đã truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định như sau:

Khong 21h30ngày 01/6/2019, tại khu vực tổ 3, phường Đ, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn, Tống Văn T đã có hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp 0,15 (không phẩy mười lăm) gam chất ma túy (loại heroine). Mục đích Tống Văn T tàng trữ trái phép chất ma tuý là phục vụ nhu cầu sử dụng chất ma tuý của bản thân; ngoài ra không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo Tống Văn T về tội:

Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma tuý, làm gia tăng tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thấy:

Bị cáo có nhân thân xấu: ngày 28/01/2013 bị chủ tịch UBND thị xã (nay là thành phố) BK áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội tỉnh Bắc Kạn thời gian 12 tháng (Quyết định số 294/QĐ - XPHC); Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và được hưởng tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo - theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS. Tại phiên tòa bị cáo khai bản thân bị cáo và bố đẻ của bị cáo đều có huân huy chương nhưng đều đã bị mất hết, nay không có tài liệu để nộp cho hội đồng xét xử, do đó hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét lời khai của bị cáo.

Vật chứng:

- 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì kí hiệu T88 và dòng chữ “Vụ: Tống Văn T (1965) tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày niêm phong còn nguyên vẹn: tất cả không có giá trị, tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ màu đen xám, loại máy bàn phím cơ học, đã qua sử dụng, có số IMEL 351961033445212 và số tiền: 40.000đ (Bốn mươi nghìn đồng): tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo T.

Đi với 01 chiếc xe đạp màu xanh mà Cơ quan điều tra đã tạm giữ, qua điều tra xác định được là của anh Lê Hồng L, sinh năm 1971, trú tại tổ K, phường H, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn cho T mượn. Khi mượn xe, T không nói cho anh L biết là mượn xe để đi mua ma túy về sử dụng, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp Lê Hồng L là đúng quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc ma tuý, bị cáo T khai mua với một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể tại khu vực bến xe khách tỉnh Bắc Kạn, quá trình điều tra không xác định được danh tính của người đàn ông này nên không có căn cứ để xử lý.

Tài liệu trong hồ sơ vụ án xác định bị cáo không có tài sản để đảm bảo cho việc thi hành án, nên hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo T.

Bị cáo T phải chịu tiền án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo: Tống Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS.

Xử phạt: Tống Văn T: 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 01/6/2019 đến ngày 10/6/2019.

* Vật chứng: Áp dụng điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước phong bì kí hiệu T88 và dòng chữ “Vụ: Tống Văn T (1965) tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày niêm phong còn nguyên vẹn.

- Tạm giữ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ màu đen xám, loại máy bàn phím cơ học, đã qua sử dụng, có số IMEL 351961033445212 và số tiền: 40.000đ (Bốn mươi nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án cho bị cáo T.

* Về án phí: Căn cứ Điều 23 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:58/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về