Bản án 58/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 58/2019/HS-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2019/HSST ngày 30 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Trịnh Văn P, sinh năm 1977 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 3, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trịnh Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị H – sinh năm 1947; vợ: Ngô Thị L - sinh năm 1979, có hai con sinh năm 1999 và năm 2010; tiền án: Ngày 17-6-2015 Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” ra trại ngày 09-12-2015, ngày 01-9-2017 Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2012 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng; tạm giữ từ ngày 01-12-2018 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Nam Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 01-12-2018, tổ công tác Công an phường Thống Nhất, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 94 đường V, phường C, thành phố N phát hiện Trịnh Văn P đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện P thả từ tay phải xuống đất 01 gói nhỏ nilon màu đen, tổ công tác đã thu giữ, mở kiểm tra bên trong có 03 gói giấy bạc màu trắng, đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (P khai là 3 gói heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa P và mời người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Bản kết luận giám định số 1048/GĐKTHS ngày 07-12-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 03 gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Trịnh Văn P được niêm phong gửi giám định đều là ma tuý; loại ma tuý: Heroine; tổng khối lượng mẫu: 0,164 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trịnh Văn P đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 10 giờ ngày 01-12-2018, P đi xe buýt từ nhà đến khu vực gầm cầu Đ, xã N, thành phố N mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) 03 gói heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng với số tiền 150.000 đồng. Trên đường về P cất 03 gói ma túy vừa mua vào trong 01 túi nilon màu đen rồi cầm trên tay phải đi bắt xe buýt về nhà để sử dụng. Khi đi đến trước cửa số nhà 94 đường V, phường X, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.

Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho P, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận, cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra để xác minh làm rõ, xử lý sau.

Bản cáo trạng số 58/CT-VKSTPNĐ ngày 30-01-2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Trịnh Văn P tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại Phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình và khai nguyên nhân bị cáo phạm tội do bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại Phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trịnh Văn P về tội danh, điều luật như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trịnh Văn P từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Khoảng 12 giờ ngày 01-12-2018, Trịnh Văn P đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,164 gam heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ tại khu vực trước cửa số nhà 94 đường V, phường C, thành phố N.

Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trịnh Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Trịnh Văn P có 02 tiền án chưa được xóa án tích nhưng bản án cuối cùng năm 2017 bị cáo chiếm đoạt tài sản trị giá dưới 2 triệu đồng nên không được tính để xác định tái phạm, tiền án năm 2015 được tính để xác định tái phạm đối với bị cáo, lần này bị cáo phạm tội với lỗi cố ý nên lần này bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự theo qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

4.3. Về hình phạt:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần ấn định cho bị cáo mức hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy bị thu giữ trong phong bì niêm phong số 1048/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Trịnh Văn P 30 (ba mươi) tháng tù.

- Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 01-12-2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 1048/GĐKTHS.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Trịnh Văn P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự: Bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:58/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về