Bản án 573/2019/HSST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 573/2019/HSST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 554/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 580/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tống Văn T, sinh ngày 26 tháng 01 năm 1990 Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở xóm LH 6, xã V, huyện P, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Làm ruộng. Con ông Tống Văn Đ (đã chết), con bà Bùi Thị Đ1 (sinh năm 1963). Có vợ Đ ặng T hị H, sinh năm 1989, có 01 co n sinh năm 2012.Gia đì nh có 02 anh em, bị cáo là co n thứ nhất. Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam giam từ ngày 12/8/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) Người chứng kiến: Ông Nguyễn Anh T1, sinh năm 1968; ông Nguyễn Khắc Q, sinh năm 1962. Đều trú tại địa chỉ tổ 31, phường C, thành phố TN. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 00 phút ngày 12 tháng 8 năm 2019, tổ công tác Công an phường C, thành phố TN làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 31 của phường phat hiên nam thanh niên đang đứng ở rìa đường co biêu hiên nghi vân liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận kiêm tra , đối tượng khai nhận tên la Tống Văn T. Qua kiểm tra phát hiện thu giữ 01 gói giấy nilon mầu đen được cất trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long mầu vàng T đang cầm trong lòng bàn tay trái, T khai nhận đó là ma túy (Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN, tiến hành cân xác định khôi lượng số chất bột mau trăng thu giữ c ủa Tống Văn T có khối lương la 0,18 gam và lấy mẫu gửi giám định ký hiệu T.

Tại bản kết luận giám định số 1169/KL-KTHS ngày 20 tháng 8 năm 2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN, kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu T gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine có khối lượng là 0,18 gam.

Tại cơ quan điều tra Tống Văn T khai nhận: Bản thân là đối tượng nghiện ma túy, nên khoảng 09 giờ 00 phút ngày 12 tháng 8 năm 2019,T bắt xe buýt từ nhà đến khu vực chợ Đ, thành phố TN, mục đích tìm mua ma túy. Tại đây, T gặp người đàn ông đi xe Drem không rõ BKS, không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể hỏi có dùng ma túy không và rủ nhau góp tiền mua ma túy, T đồng ý, người đàn ông đó điều khiển xe trở T đến khu vực cổng Công ty Gang Thép thuộc tổ 31, phường C, thành phố TN, bảo T đứng đợi, T đưa cho người này 100.000đ để đi mua ma túy, khoảng 10 phút sau người đàn ông trên quay lại đưa cho T 1 vỏ bảo thuốc lá Thăng Long mầu vàng, bên trong có 1gói bằng túi nilon mầu đen bên trong chứa chất bột mầu trắng và bảo T tiếp tục đứng đợi người này đi mua xi lanh về cùng nhau sử dụng. T đứng đợi thì bị tổ công tác kiểm tra thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Lời khai nhận của Tống Văn T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu T, bên trong chứa Heroine (mẫu hoàn lại sau giám định). Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN, chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 553/CT-VKSTPTN ngày 03 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Tống Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội, tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Tống Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tống Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt từ 18 đến 24 tháng tù giam.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01(một) bì niêm phong ký hiệu T, mặt sau phong bì có chữ ký đồng chí Trần Đức T, cán bộ KTHS Công an tỉnh TN và chữ ký của đồng chí Ma Triệu Vũ, cán bộ Công an thành phố TN cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh TN.

- Về án phí bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng. Do đó các Quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 10 giờ 00 phút ngày 12 tháng 8 năm 2019, tại tổ 31, phường C, thành phố TN, tỉnh TN, Tống Văn T có hành vi tàng trữ 0,18 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an phường C, thành phố TN phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà nước quản lý nhưng vấn cố tình tàng trữ 0,18 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Tống Văn T chưa có tiền án tiền sự. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét cần lên một mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, để bị cáo thấy sự nghiêm minh của pháp luật, rèn luyện chở thành người có ích cho xã hội.

Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử xem xét có một mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[6] Vật chứng của vụ án:

- 01(một) bì niêm phong ký hiệu T, bên trong chứa Heroine là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí

- Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng theo biên bản xác minh, bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, T khai đã góp tiền và đi cùng người đàn ông đi xe Drem (không rõ tên tuổi địa chỉ) mua tại khu vực phường C, thành phố TN do không xác định được người này và người bán ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN, không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

1. Bị cáo Tống Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

2. Xử phạt: Bị cáo Tống Văn T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01(một) bì niêm phong ký hiệu T, mặt sau phong bì có chữ ký đồng chí Trần Đức T, cán bộ KTHS Công an tỉnh TN và chữ ký của đồng chí Ma Triệu V, cán bộ Công an thành phố TN cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh TN. Theo biên bản giao nhận vật chứng số 06 ngày 01/10/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. /.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 573/2019/HSST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:573/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về