TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 57/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2021/ TLST-HS, ngày 07 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/QĐXXST – HS ngày 15 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn T; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1972 tại huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKNKTT: Bản L, xã XL, huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản L, xã XL, huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 4/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Lò Văn M (đã chết) và bà Lò Thị A, sinh năm 1945; Bị cáo có vợ: Bạc Thị M, sinh năm 1973 và có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 2003; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số: 30/2017/HSST ngày 07/6/2017 đã xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” đến nay đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giam, giữ từ ngày 06/01/2021 cho đến ngày xét xử, bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T: Bà Bùi Thúy A, sinh năm 1993;
chức danh: Trợ giúp viên pháp lý.
Nơi công tác: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên. (Có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn T, sinh năm 1998. Trú tại: Bản L, xã XL, huyện MA, tỉnh Điện Biên.
(Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì hành vi phạm tội của Lò Văn T được tóm tắt như sau:
Hồi 16 giờ 30 phút ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại bản LC, xã NL, huyện MA, Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ 1,8 gam Heroine và 0,22 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng.
Quá trình điều tra đã làm rõ: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 06/01/2021 Lò Văn T từ nhà điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX, màu sơn đen đỏ, BKS 27B1 – 779.10 đi đến bản Lịch Nưa, huyện MA tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến bản Lịch Nưa thì T gặp và mua của một người đàn ông dân tộc Mông, không quen biết 01 gói Heroine được gói bằng túi nilon màu trắng và 02 viên Methamphetamine màu hồng với giá 500.000đ. Sau khi mua được ma túy Lò Văn T cầm gói ma túy ở tay trái rồi điều khiển xe máy trở về nhà. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày T đang trên đường về đến bản Lịch Cang, xã Nặm Lịch thì gặp Tổ Công tác Công an xã Nặm Lịch đang làm nhiệm vụ. Tổ Công tác đã yêu cầu Thoan dừng xe để kiểm tra, sau khi dừng xe T đã thả gói nilong màu đen bên trong có chứa ma túy từ tay trái xuống đất thì bị tổ công tác phát hiện. Tổ công tác đã yêu cầu Thoan nhặt gói nilong màu đen lên giao nộp, kiểm tra bên trong chứa Heroine và 02 viên Methamphetamine, ký hiệu WY. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong thu giữ 1,8 gam Heroine và 0,22 gam Methamphetamine.
Tại biên bản niêm phong vật chứng hồi 17 giờ 30 phút ngày 06/01/2021 thì vật chứng thu giữ của Lò Văn T là 01 gói túi nilong màu đen đựng 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chứa nhiều cục nhỏ chất bột màu trắng nghi là Heroine và 02 viên màu hồng có ký hiệu WY nghi là Methamphetamine (Hồng phiến).
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 06/01/2021 thì 01 gói túi nilong màu đen đựng 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chứa nhiều cục nhỏ chất bột màu trắng nghi là Heroine có khối lượng là: 1,8 gam và 02 viên màu hồng có ký hiệu WY được gói bằng túi ni lông màu trắng nghi là Methamphetamine (Hồng phiến) có khối lượng là: 0,22 gam.
Tại bản kết luận giám định số: 138/GĐ – PC 09, ngày 15/01/2021 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn T gồm:
- 1,8 gam chất bột màu trắng là ma túy: Loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, mục IA, danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018;
- 0,22 gam viên nén màu hồng là ma túy: Loại Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy có số thứ tự: 323, Mục IIC, danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.
Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.
Cáo trạng số: 34/CT - VKSMA, ngày 06/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 1,7 gam Heroine; 0,11 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án.
Trả lại cho bị cáo Lò Văn T: 01 chiếc điện thoại di động bàn phím vỏ màu nâu, mặt trước điện thoại có chữ GOLY G3301; số IMEL1: 358819085203975; số IMEL2: 358819085203983, điện thoại đã qua sử dụng.
Trả lại cho anh Lò Văn T 01 xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX, màu sơn đen đỏ, BKS 27B1 – 779.10.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí đề nghị miễn án phí HSST cho bị cáo Lò Văn T.
* Nội dung bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T nhất trí với nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, bố, mẹ đẻ bị cáo tham gia kháng chiến được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất, hạng ba đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS đề nghị Hội đồng xét xử khi Quyết định hình phạt xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện viện kiểm sát.
Về vật chứng: 01 chiếc đoạn thoại di động bàn phím vỏ màu nâu, mặt trước điện thoại có chữ GOLY G3301; số IMEL1: 358819085203975; số IMEL2: 358819085203983, điện thoại đã qua sử dụng là điện thoại của bị cáo T, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo T.
Về án phí: Bị cáo Lò Văn T là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, miễn án phí HSST cho bị cáo.
Bị cáo Lò Văn T nhất trí nội dung bản luận cứ của người bào chữa.
Lời nói sau cùng, Lò Văn T nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Nội dung vụ án: Hồi 16 giờ 30 phút ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại bản Lịch Cang, xã Nặm Lịch, huyện MA, Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ 1,8 gam Heroine và 0,22 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng.
Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với biên bản niêm phong tài liệu đồ vật và biên bản xác định khối lượng ngày 06/01/2021 và kết luận giám định số: 138/GĐ – PC 09, ngày 15/01/2021 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, cũng như biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 16 giờ 40 phút ngày 06/01/2021 đối với Lò Văn T.
Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lò Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2]. Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.
[3]. Về tình tiết định khung hình phạt: Khối lượng ma túy thu giữ của Lò Văn T là 1,8 gam Heroine và 0,22 gam Methamphetamine. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 19/2018/NĐ - CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự thì tổng khối lượng hai chất ma túy được cộng vào để làm căn cứ truy tố, xét xử đối với bị cáo là 1,8 gam + 0,22 gam = 2,02 gam. Khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ ở trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù.
[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện MA, tỉnh Điện Biên được bố mẹ nuôi ăn học hết lớp 4/12 thì ở nhà lao động sản xuất. Năm 1996 thì xây dựng gia đình với chị Bạc Thị M, sinh năm 1973 và có 03 người con. 07/6/2017 đã xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”, năm 2018 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương đến nay đã được xóa án tích. Bị cáo là một người chồng, người cha đã chấp hành án về nhưng do thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy, nên có nhân thân không tốt. Bởi vậy Hội đồng xét xử cần đưa ra mức hình phạt thật nghiêm khắc, để cải tạo giáo dục bị cáo và cũng là cơ hội để bị cáo cai nghiện ma túy. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, bố mẹ đẻ bị cáo là ông Lò Văn M, bà Lò Thị A tham gia kháng chiến được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất, hạng ba nên Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống, xã hội một thời gian để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình, sau này trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 của BLHS.
Theo khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Về đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa cho bị cáo xét thấy phù hợp nên hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
[6]. Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Các hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7]. Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng: 1,7 gam Heroine và 0,22 gam Methamphetamine, là vật chứng còn lại sau khi gửi mẫu giám định cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 chiếc điện thoại di động bàn phím vỏ màu nâu, mặt trước điện thoại có chữ GOLY G3301; số IMEL1: 358819085203975; số IMEL2: 358819085203983, điện thoại đã qua sử dụng là điện thoại của bị cáo hội đồng xét xử xét thấy không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo T hoan.
- 01 xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX, màu sơn đen đỏ, BKS 27B1 – 779.10 là chiếc xe máy của anh Lò Văn T là con của bị cáo Thoan, trong quá trình điều tra, tại phiên tòa anh Thuật không được biết bố anh là bị cáo Lò Văn T đi xe của anh đi mua ma túy về sử dụng. Nay anh xin Hội đồng xét xử trả lại cho anh chiếc xe để làm phương tiện đi lại, Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho anh Thuật là phù hợp cần chấp nhận.
Về nguồn gốc số Heroine, Methamphetamine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ ở đâu vào ngày 06/01/2021. Quá trình điều tra không có cơ sở để làm rõ đối tượng nên HĐXX không xem xét.
[8]. Về án phí: Bị cáo Lò Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nhưng bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[9]. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Áp dụng: Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Lò Văn T 25 (hai mươi lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06 tháng 01 năm 2021.
2. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 1,7 gam Heroine và 0,11gam Methamphetamine, là vật chứng còn lại sau khi gửi mẫu giám định.
Trả lại cho bị cáo Lò Văn T: 01 chiếc điện thoại di động bàn phím vỏ màu nâu, mặt trước điện thoại có chữ GOLY G3301; số IMEL1: 358819085203975; số IMEL2: 358819085203983, điện thoại đã qua sử dụng.
Trả lại cho anh Lò Văn T 01 xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX, màu sơn đen đỏ, BKS 27B1 – 779.10.
(Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/4/2021).
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn T.
4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Thuật có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể kể từ ngày tuyên án về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.
Bản án 57/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 57/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về