Bản án 57/2021/HNGĐ-ST ngày 30/07/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 57/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 128/2021/TLST - HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2021 về "Không công nhận quan hệ vợ chồng" theo Quyết định hoãn phiên tòa số 124/2021/QĐST-HPT ngày 14 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T– sinh năm 1972.

Địa chỉ cư trú: xóm Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Chị Hồ Thị L – sinh năm 1972.

Địa chỉ cư trú: xóm Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt lần 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 07/5/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Văn T trình bày: Anh và chị Hồ Thị L chung sống với nhau từ năm 1994, nhưng không có đăng ký kết hôn. Hai bên có với nhau 3 con chung. Quá trình chung sống tình cảm bình thường cho đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn ngày một căng thẳng trầm trọng. Từ năm 2014 đến năm 2017 Chị L tham gia làm ăn và bị thua lỗ, nợ nần chồng chất, anh đã nhiều lần phải đứng ra trả nợ thay. Từ đó hai bên thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm, xúc phạm lẫn nhau. Từ năm 2018 đến nay anh và chị L sống ly thân, không còn quan hệ chung sống với nhau nữa.

Do hai bên không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên anh đề nghị Tòa án xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh và chị Hồ Thị L.

Về con chung: Có 3 con chung là: Nguyễn Thị T, sinh năm 1998; Nguyễn Như T, sinh năm 2001; Nguyễn Như H, sinh 14/8/2005. Hiện nay 2 cháu T, T đã đủ tuổi trưởng thành, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; cháu Hoàng hiện đang sinh sống cùng anh T. Ly hôn anh có nguyện vọng tiếp tục nuôi con, không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị Hồ Thị L theo đúng quy định của pháp luật, nhưng chị L vẫn vắng mặt. Vì vậy, Tòa án không thể làm việc được với chị L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1,7 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Đối với chị Hồ Thị L. Đây là phiên tòa được mở lần thứ 2 nhưng chị L vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án căn cứ vào khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị L.

Đối với anh T, sau khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử lần 2, anh Tcó đơn xin xét xử vắng mặt vì lý do địa phương nơi cư trú phải giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Chính Phủ, việc đi lại bị ngăn cấm và gặp nhiều khó khăn, nên Tòa án căn cứ vào khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh T.

Xét hôn nhân giữa anh Tvà chị L có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương, nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên không được xem là hợp pháp. Sau ngày cưới hai bên chung sống tình cảm được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, ngày một căng thẳng, trầm trọng. Nguyên nhân là do tính tình không phù hợp, thường xuyên xảy ra bất đồng, xúc phạm lẫn nhau, chị L tham gia làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất. Hai bên đã sống ly thân, không còn quan hệ, tình cảm gì với nhau nữa. Do hai bên không có đăng ký kết hôn nên Tòa án cần phải áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH 10, ngày 09/6/2000 của Quốc hội; khoản 1 điều 9 và khoản 1 điều 14 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014, xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Tvà chị L.

Về con chung: Anh T, chị L có 3 con chung như đã nêu trên. Hiện cháu Nguyễn Như Hoàng chưa đủ 18 tuổi và đang sinh sống cùng anh. Ly hôn anh có nguyện vọng tiếp tục nuôi con. Xét yêu cầu của anh Tlà chính đáng, bởi hiện tại chị L không có mặt tại địa phương, nguyện vọng của cháu Hoàng cũng mong muốn được ở với bố. Do đó, cần giao con cho anh Ttrực tiếp nuôi dưỡng cũng là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Anh Tkhông yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

Về án phí: Anh Tphải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1, 7 điều 28; khoản 2 điều 227; khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 điều 9, khoản 1 điều 14; điều 81, 82, 83 luật Hôn nhân & Gia đình.

Xử: Kng công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Nguyễn Văn Tvà chị Hồ Thị L.

Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Như Hoàng, sinh 14/8/2005 cho anh Nguyễn Văn Ttrực tiếp nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành. Anh Tkhông yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

Chị Hồ Thị L có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Về án phí: Căn cứ điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc anh Nguyễn Văn T phải nộp 300.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng anh T đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002960 ngày 12/5/2021. Anh Tđã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm. Anh T, chị L được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày, nhưng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2021/HNGĐ-ST ngày 30/07/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:57/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về