Bản án 57/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN KỲ, TỈNH NGHỆ AN

BN ÁN 57/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tân Kỳ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ dân sự lý số: 03/2021/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự.

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thu T, sinh ngày: 01 tháng 8 năm 1986.

Trú tại: Khối A, thị trấn T, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An (Có mặt tại phiên toà)

2. Bị đơn: Anh Trần Văn V, sinh ngày: 15 tháng 8 năm 1984.

Trú tại: Khối B, thị trấn T, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An (Vắng mặt tại phiên tòa) Chỗ ở hiện nay: Trại tạm giam T16 Bộ Công an, địa chỉ: xã Mỹ Hưng, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11/9/2020 và lời khai tại bản khai có tại hồ sơ vụ án, tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thu T trình bày: Chị và anh Trần Văn V đăng ký kết hôn ngày 12/9/2007 theo quy định của pháp luật tại UBND xã Trung Minh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc cho đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau, mặc dù chị T đã rất cố gắng hàn gắn nhưng mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị không chấm dứt mà ngày càng trầm trọng hơn. Nay chị T nhận thấy tình cảm của chị đối với anh Trần Văn V không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Văn V.

Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung là cháu Trần Nguyễn Phương Chi, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2007, cháu Phương Chi hiện nay đang sống chung với chị T. Ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phương Chi cho đến khi cháu đủ 18 tuổi trưởng thành và chị T không yêu cầu anh Trần Văn V cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia. Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay chị Nguyễn Thu T vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh Trần Văn V, giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Văn V.

Bị đơn anh Trần Văn V đã được tòa án triệu tập hợp lệ và tiến hành tống đạt các văn bản của Tòa án nhưng anh không có mặt theo giấy báo của Tòa án. Tòa án đã lập biên bản về việc không thể tiến hành hòa giải được. Tòa án cũng đã xác minh thì hiện nay anh Trần Văn V đang bị tạm giam trong một vụ án hình sự tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an, địa chỉ: xã Mỹ Hưng, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội nên Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An đã ủy thác cho Tòa án nhân dân huyện Thanh Oanh, thành phố Hà Nội tống đạt các thủ tục tố tụng về việc Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ đã thụ lý giải quyết vụ án ly hôn cho anh V biết và lấy lời khai của bị đơn. Tại bản tự khai ngày 22/3/2021, anh Trần Văn V trình bày: Về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn anh V thừa nhận như chị T đã khai. Hôn nhân của anh V và chị T là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau dẫn đến hai vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2020. Từ khi ly thân cho đến nay vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay chị T có nguyện vọng ly hôn, anh V cũng đồng ý vì xét thấy tình cảm vợ chồng không còn.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 người con chung là cháu Trần Nguyễn Phương Chi, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2007 hiện cháu đang ở cùng với chị Nguyễn Thu T. Ly hôn chị T có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Phương Chi cho đến khi cháu trưởng thành và không yêu cầu anh cấp dưỡng tiền nuôi con chung thì anh đồng ý vì hiện nay anh không đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Anh V yêu cầu xin được xét xử vắng mặt của anh V vì hiện nay anh đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an.

Phát biểu ý kiến tại phiên toà, Kiểm sát viên đánh giá trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng, đầy đủ quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử. Hội đồng xét xử cũng đã tuân theo đúng quy định của pháp luật trong quá trình xét xử, không có vi phạm về thủ tục.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Cần chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thu T, xử cho chị Nguyễn Thu T được ly hôn anh Trần Văn V. Về con chung: Cần chấp nhận yêu cầu của chị T, anh V, giao con chung Trần Nguyễn Phương Chi, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2007 cho chị Trần Thu T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Trần Văn V, anh Trần Văn V có quyền nghĩa vụ đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở. Về tài sản không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến trình bày của nguyên đơn, ý kiến trình bày của Kiểm sát viên Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Trần Văn V đến làm việc và tham gia phiên hòa giải nhưng do anh V đang bị tạm giam trong một vụ án hình sự khác nên vụ án không thể tiến hành hòa giải được. Ngày 29/3/2021 Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy báo triệu tập phiên tòa tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh Trần Văn V để tham gia phiên tòa sơ thẩm ngày 14/4/2021 nhưng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa. Ngày 15/4/2021 tiếp tục ra giấy báo triệu tập phiên tòa lần 2 và tống đạt trực tiếp giấy triệu tập, Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh Trần Văn V tại Trại tạm giam T16 Bộ Công an. Tại phiên tòa hôm nay anh Trần Văn V vắng mặt, nên áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Trần Văn V.

[3] Về tình trạng hôn nhân: Xét cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thu T và anh Trần Văn V là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp, có đăng ký kết hôn vào ngày 12/9/2007 tại UBND xã Trung Minh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình. Trong cuộc sống hôn nhân thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình và quan điểm sống không phù hợp, dẫn đến đầu năm 2020 thì vợ chồng sống ly thân với nhau. Nay chị T kiên quyết xin ly hôn, anh V cũng nhất trí ly hôn nhưng vì điều kiện anh Trần Văn V đang bị tạm giam nên anh V không thể tham gia tố tụng tại Tòa án. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm giữa chị T và anh V đã thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được. Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thu T, xử cho chị Nguyễn Thu T được ly hôn hôn anh Trần Văn V theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Chị T và anh V đều xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Nguyễn Phương Chi. Cháu Trần Nguyễn Phương Chi đang được chị T nuôi dưỡng, cho ăn học, phát triển bình thường bản thân anh Trần Văn V cũng có nguyện vọng giao con cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục. Vì vậy, xét cần giao con chung cho chị Nguyễn Thu T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục là phù hợp. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh V đến khi chị T có yêu cầu. Anh Trần Văn V có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở.

[5] Về quan hệ tài sản chung và các quyền nghĩa vụ liên quan đến tài sản:

Chị T và anh V không yêu cầu Toà án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thu T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xử: Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thu T được ly hôn anh Trần Văn V.

- Về con chung: Giao con chung Trần Nguyễn Phương Chi, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2007 cho chị Nguyễn Thu T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Trần Văn V cho đến khi chị Nguyễn Thu T có yêu cầu. Anh Trần Văn V có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được ngăn cản quyền này.

- Về quan hệ tài sản chung và các quyền nghĩa vụ liên quan đến tài sản:

Không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Áp dụng điểm a, khoản 5 Điều 27, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: Chị Nguyễn Thu T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001176 ngày 11/9/2021 tại Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An. Chị Nguyễn Thu T đã nộp đủ án phí Dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ( ngày 28/4/2021). Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản sao bản án tại nơi cư trú của bị đơn.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:57/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Kỳ - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về