Bản án 57/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 57/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 17/2021/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn". Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2021, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Thôn S, xã Th, huyện B, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1981.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn S, xã Th, huyện B, tỉnh Hải Dương.

Hiện đang cư trú tại: Nhật Bản. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Xuân T được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Th, huyện B, tỉnh Hải Dương ngày 29/3/2005. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống và làm ăn kinh tế. Chị H muốn anh T ở trong nước làm ăn và nuôi dậy con cái, anh T lại muốn đi lao động ở nước ngoài. Từ đó vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn và đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Anh T đi lao động tại Nhật Bản từ năm 2019 và sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Xuân T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Thanh Th, sinh ngày 08/3/2006 và Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 08/3/2012. Chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi) và tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của ông Nguyễn Xuân Ng (là bố anh T) khai: Ông không biết địa chỉ cụ thể của anh T ở nước ngoài nên không cung cấp được cho Tòa án.

Tuy nhiên anh T vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh T biết. Thông qua gia đình, anh T trình bày quan điểm và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đồng ý ly hôn, lúc đầu anh đề nghị được nuôi con nhưng sau đó anh nhất trí để chị H trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và đề nghị được giải quyết vắng mặt. Ông Ng xác định chị H và anh T đã thống nhất việc ly hôn nên ông đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của các bên đương sự.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị H, anh T đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Quá trình chung sống của vợ chồng như thế nào địa phương không nắm được cụ thể. Từ khi anh T đi xuất khẩu lao động chị H đã dọn ra ngoài thuê nhà sống. Không ở cùng với bố mẹ chồng. Nay chị H có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của các đương sự và theo quy định của pháp luật.

Con chung của chị H và anh T là Nguyễn Thị Thanh Th và Nguyễn Tuấn A đều có nguyện vọng được ở với chị H Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) và nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Nguyễn Xuân T. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Thanh Th và cháu Nguyễn Tuấn A cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị H sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Nguyễn Xuân T có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở thôn Thôn S, xã Th, huyện B, tỉnh Hải Dương, hiện anh T đang lao động tại Nhật Bản, không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh T ở Nhật Bản. Tòa án đã đề nghị gia đình anh T cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án cũng tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình anh T và gia đình đã thông báo cho anh T biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị H và anh T. Đồng thời Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai anh T vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt. Chị H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Xuân T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Th, huyện B, tỉnh Hải Dương ngày 29/3/2005 nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống cũng như trong làm ăn kinh tế. Anh T muốn đi nước ngoài lao động, làm ăn, chị H không đồng ý dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Chị H chuyển ra ngoài thuê nhà trọ sinh sống. Mặc dù anh T và chị H có liên lạc với nhau nhưng chỉ vì con cái, giữa anh chị không còn tình cảm và không quan tâm đến nhau. Thông qua gia đình, anh T thông tin và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình, chính quyền địa phương. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị H ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Xuân T có hai con chung là Nguyễn Thị Thanh Th, sinh ngày 08/3/2006 và Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 08/3/2012, hiện đang ở với chị H. Anh T đang lao động ở nước ngoài, không có mặt tại Việt Nam nên không đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Các con đều có nguyện vọng được ở với chị H, anh T cũng nhất trí để chị H trực tiếp nuôi con. Do vậy, HĐXX chấp nhận giao con chung Nguyễn Thị Thanh Th và Nguyễn Tuấn A cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng cho con. Nếu có căn cứ cho rằng chị H không đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh T có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H, anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết chia tài sản sau khi ly hôn (nếu có) theo quy định của pháp luật.

[3]. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H ly hôn anh Nguyễn Xuân T.

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Phạm Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung là Nguyễn Thị Thanh Th, sinh ngày 08/3/2006 và Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 08/3/2012 cho đến khi các con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh Tình phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở anh Nguyễn Xuân T thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0005712 ngày 12 tháng 01 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Xuân T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:57/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về