TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 57/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2020/TLST-HS ngày 31/8/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐXXST-HS ngày 10/9/2020 đối với bị cáo:
SẰM VĂN D, tên gọi khác: Không, sinh ngày 13/10/1988 tại huyện C, tỉnh TQ;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, chỗ ở: Thôn N, xã T, huyện C, tỉnh TQ; quốc tịch: Việt Nam; dân Tộc: Tày; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Sằm Văn V và bà Ma Thị S; vợ Phạm Thị L; có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2008;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Sằm Văn D: Bà Nguyễn Thị Nguyệt, trợ giúp viên pháp lý Nhà nước thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đầu tháng 6 năm 2020, D quen một người tự giới thiệu tên là T, biết T có Heroine bán. Khoảng 14 giờ ngày 08/6/2020, D mượn điện thoại của Ma Đức C điện thoại cho T hỏi “có hàng không” T nói “có” và bảo D cứ đi đến xã X sẽ gặp T. Tiếp đó, D mượn xe mô tô biển kiểm soát 22B1-092.64 của anh Ma Đức N, trú cùng thôn, một mình đến xã X, huyện Chiêm Hóa để mua Heroine với T. Khoảng 15 giờ ngày 08/6/2020, D đi đến thôn L, xã X, huyện C gặp T đang đứng một mình ở cạnh đường, D đưa cho T 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), T cầm tiền và đưa cho D 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng. D cầm gói Heroine trên tay phải, điều khiển xe đi về nhà để sử dụng. Khi D đến ngã ba (thuộc thôn L, xã X, huyện C) thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự Công an huyện C đang làm nhiệm vụ thì phát hiện D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22B1-092.64 nghi có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tổ công tác đã yêu cầu dừng xe lại để kiểm tra thì phát hiện trên tay phải của D đang cầm 01 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng, D khai là Heroine, nhằm mục đích sử dụng, tổ công tác tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ tang vật theo quy định.
Tại biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy, ngày 08/6/2020 tại Công an huyện C đối với Sằm Văn D, kết quả: (+) Dương tính.
Tại kết luận giám định số 484/GĐKTHS ngày 11/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng là 0,135g (không phẩy một ba năm gam).
Cáo trạng số: 58/CT-VKSCH ngày 28/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Sằm Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Sằm Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt chính: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Sằm Văn D từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 08/6/2020.
Về hình phạt bổ sung phạt tiền: Bị cáo phạm tội không có mục đích vụ lợi, thuộc hộ nghèo, sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Sằm Văn D là 01 bì niêm phong bên trong có chứa phần còn lại sau giám định của chất ma túy thu giữ trên người Sằm Văn D theo biên bản bắt người phạm tội quả tang do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa lập ngày 08/6/2020; tịch thu tiêu hủy 03 xi lanh (loại 30ml); 01 lọ thủy tinh bên trong chứa chất lỏng trong suốt, lọ thủy tinh nhãn hiệu NUVOCAIN 3%.
Đối với người đàn ông tên T bán Heroine cho Sằm Văn D quá trình điều tra không xác định được họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Sằm Văn D Công an huyện Chiêm Hóa đã xử phạt vi phạm hành chính, nên không đề nghị xem xét.
Đối với Ma Đức N là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22B1-092.64, khi D mượn xe N không biết D sử dụng vào mục đích phạm tội nên không đề nghị xem xét.
Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án của bị cáo theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo Sằm Văn D xác định ngày 08/6/2020 bị cáo D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,135g (không phẩy một ba năm gam) Heroine. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 (dân tộc thiểu số, cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, hộ nghèo); Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Sằm Văn D ở mức khởi điểm điều luật quy định. Về hình phạt bổ sung đề nghị không áp dụng đối với bị cáo.
Tại phiên tòa bị cáo Sằm Văn D đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhất trí nội dung bào chữa của người bào chữa cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 08/6/2020, tại thôn L, xã X, huyện C, tỉnh TQ, Sằm Văn D đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine, khối lượng 0,135g (không phẩy một trăm ba mươi lăm gam), mục đích để sử dụng, khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ trái phép trong phạm vi khối lượng ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (từ 0,1 gam đến 05 gam). Đủ cơ sở xác định bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Ma túy là chất gây nghiện, có tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội, sa sút về kinh tế, gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình, nhưng bị cáo đã đi ngược lại quy định Nhà nước, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vi phạm pháp luật, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải", "Sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn " theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm chung; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên; nội dung bào chữa của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng mức án tương xứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời làm gương phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo Sằm Văn D xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 03 xi lanh, 01 lọ thủy tinh bên trong chứa chất lỏng trong suốt, nhãn hiệu NUVOCAIN 3%, cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Đối với người đàn ông tên T đã bán ma túy cho bị cáo Sằm Văn D, quá trình điều tra không xác định được họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ, cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Sằm Văn D, Công an huyện C đã ra Quyết định xử phạt hành chính nên không xem xét xử lý. Đối với Ma Đức N là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22B1-092.64, khi D mượn xe N không biết D sử dụng vào mục đích phạm tội nên không xem xét. Đối với Ma Đức C là chủ sở hữu điện thoại di động đã cho bị cáo D mượn điện thoại để liên hệ mua ma túy, khi cho D mượn điện thoại, C không biết bị cáo sử dụng điện thoại giao dịch trái phép, nên không có căn cứ xử lý.
[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị, thuộc hộ nghèo, dân tộc thiểu số, sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo. Không thực hiện tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc cấm hành nghề làm công việc nhất định đối với bị cáo.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Sằm Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Sằm Văn D, 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 08/6/2020.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Sằm Văn D. Vật chứng là 01 bì niêm phong bên trong có chứa phần còn lại sau giám định của chất ma túy thu giữ trên người Sằm Văn D theo biên bản bắt người phạm tội quả tang do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C lập ngày 08/6/2020. Tịch thu tiêu hủy 03 xi lanh (loại 30ml), 01 lọ thủy tinh bên trong chứa chất lỏng trong suốt, lọ thủy tinh nhãn hiệu NUVOCAIN 3%.
Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa.
Sằm Văn D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 24/9/2020.
Bản án 57/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 57/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về