Bản án 568/2019/HSST ngày 30/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 568/2019/HSST NGÀY 30/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 569/2019/HSST, ngày 07 tháng 10 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Viết H; Giới tính: nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 20/4/1975. (Có mặt tại phiên Tòa). ĐKHKTT và nơi ở: Xóm Q, xã S, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hoá: 2/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ (Đảng, Đ thể, chính quyền) trước khi phạm tội: Không; Con ông: Đỗ Văn T (đã chết); Con bà: Vũ Thị C, sinh năm 1942; Gia đình Có 11 anh chị em, bị cáo là con thứ 9; Có vợ là Nguyễn Thị D, sinh năm 1976; Có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2013.

- Tiền án, Tiền sự: Không.

- Nhân thân: Tại Quyết định 1729/ QĐ – UBND ngày 31/8/2009 của UBND huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào chữa bệnh bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh, giáo dục lao động, xã hội huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên thời hạn 18 tháng. Chấp hành xong ngày 30/11/2010.

Hin bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8/2019).

2. Họ và tên: Ngô Văn Đ; Gii tính: Nam; Tên gọi khác: Không.

- Sinh ngày 24 tháng 4 năm 1981. (Có mặt tại phiên Tòa) - ĐKHKTT và nơi ở: Xóm H, xã S, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên - Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Tiếp cận viên cộng đồng; Chức vụ (Đảng, Đ thể, chính quyền) trước khi phạm tội: Không; Con ông: Ngô Văn B, sinh năm 1957; Con bà:Phạm Thị V, sinh năm 1958; Gia đình Có 4 anh chị em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ là Triệu Thị Phương T, sinh năm 1988, Có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2012.

- Tiền án, tiền sự: Không Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/8 /2019).

Ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị V, sinh năm 1958. (Có mặt tại phiên Tòa).

Đa chỉ: Xóm H, xã S, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Đại C, sinh năm 1959.(Vắng mặt tại phiên Tòa).

Nơi cư trú: Tổ X, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 28/8/2019, tổ công tác của Công an phường Quang Vinh, thành phố Thái Nguyên đang tuần tra, kiểm soát tại khu vực tổ X của phường thì phát hiện 02 nam thanh niên đi trên chiếc xe mô tô BKS 20E1-141-94 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Khi đi đến đoạn đường dân sinh thì người đàn ông điều khiển xe máy đỗ lại gần vị trí cột điện trên đường dân sinh, người còn lại ngồi sau xuống xe và tiến lại gần khu vực cây cột điện dùng tay trái nhặt một gói giấy bạc nhỏ. Tổ công tác tiếp cận, yêu cầu kiểm tra, 02 nam thanh niên khai tên (Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ). Quá trình kiểm tra H đã tự nguyện giao nộp 01 gói giấy bạc màu vàng , bên trong có một gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng và 1/2 viên nén màu hồng, H khai là ma túy (Heroine) và hồng phiến vừa mua về để cả hai cùng sử dụng. Tổ công tác mời người chứng kiến, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu sơn đen BKS 20E1 – 14194.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột mầu trắng thu giữ của Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ có khối lượng là 0,339 gam và lấy mẫu vật gửi giám định ký hiệu H, số viên nén màu hồng thu giữ của Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ có khối lượng là 0,055 gam và lấy mẫu vật gửi giám định ký hiệu H1.

Tại bản Kết luận giám định số 1238/KL-KTHS ngày 05/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu H thu giữ của Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ là chất ma túy, loại Heroine có khối lượng là 0,339 gam; 1/2 viên nén màu hồng trong mẫu H1 thu giữ của Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ là chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,055 gam.

Tại cơ quan điều tra Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ khai nhận: Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 28/8/2019 H đang ở nhà thì Đ gọi điện cho H rủ đi mua ma túy về để cùng sử dụng, H đồng ý và nói với Đ là H có 400.000 đồng. Sau đó Đ điều khiển xe máy BKS 20E1 – 14194 đến nhà H chở H đến khu vực cầu M, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên tìm mua ma túy. Đến nơi Đ gọi điện cho một người phụ nữ không quen biết hỏi mua Heroine và hồng phiến, người phụ nữ này đồng ý rồi chỉ đường cho Đ đến khu vực đường dân sinh thuộc phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Sau đã Đ chở H đến cửa hàng tạp hóa thì bảo H xuống xe đưa cho người phụ nữ số tiền 400.000đ. Sau khi nhận tiền, người phụ nữ bảo H và Đ đi theo xe mô tô (không rõ BKS) của người này để nhận ma túy. Khi đến vị trí cây cột điện ở đường dân sinh người phụ nữ thả gói ma túy xuống chân cây cột điện rồi điều khiển xe bỏ đi. H xuống nhặt gói ma túy ở chân cây cột điện, đang cầm trên tay chưa kịp đi về để sử dụng thì bị thì bị tổ công tác Công an phường Quang Vinh phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) bì niêm phong ký hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Lê Tuấn Anh cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Thái Nguyên.

- 01 (một) bì niêm phong ký hiệu H1 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Lê Tuấn Anh cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Thái Nguyên.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu đen, BKS 20E1- 14194, hiện cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Phạm Thị V.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, số Imei: 1: 353700073501585; số Imei: 2: 353700073501593.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, số Imei 1:863539042109515; số Imei 2: 863539042109507.

Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 563/CT-VKSTPTN, ngày 05/ 10/ 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên Tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả. Các bị cáo thừa nhận việc truy tố là đúng, không oan, sai.

Tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ, đã công bố bản luận tội đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ phạm tội “Tràng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38. Xử phạt Đỗ Viết H từ 30 đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2019, bị cáo Ngô Văn Đ từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy vật chứng: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Lê Tuấn Anh cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Thái Nguyên; 01 (một) bì niêm phong ký hiệu H1 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Lê Tuấn Anh cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Thái Nguyên.

Tch thu sung quỹ nhà nước vật chứng là: 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, số Imei: 1: 353700073501585; số Imei: 2: 353700073501593; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, số Imei 1: 863539042109515; số Imei 2: 863539042109507.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST nộp ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan.

Các bị cáo nói lời sau cùng xin hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong Quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tù, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên Tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đã các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng , người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên Tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, các bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tù nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng, biên bản cân xác định trọng lượng, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và những chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 14 giờ phút ngày 28/8/2019, tại tổ X, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ đang có hành vi tàng trữ 0, 339 gam Heroine và 0,055 gam Methamphetamine do Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ cùng nhau đi mua về, mục đích cùng nhau sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường Quang Vinh phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Như vậy, hành vi của các bị cáo Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi phạm tội của các bị cáo vi phạm quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà Không nhằm môc đích mua bán, V chuyển, sản xuất trai phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đã tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định từ một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này …”.

Do vậy các bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.

- Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền về ma túy của nhà nước, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự của địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của bản thân các bị cáo. Ngoài ra, hành vi của các bị cáo còn là Nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác nên cần có hình phạt tương xứng với tội trạng của các bị cáo đã gây ra để giáo dục riêng và Phòng ngừa chung.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét về nhân thân của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu nghiện ma túy, bị cáo Đỗ Viết H đã bị áp dụng biện pháp lý hành chính, đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh, giáo dục lao động xã hội huyện Phú Lương nhưng không chịu cai nghiện trở thành người có ích cho xã hội chứng tỏ các bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém.

Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, bị cáo H và Đ đã thống nhất H là người bỏ tiền và hai bị cáo cùng nhau đi mua ma túy. Các bị cáo cùng có vai trò như nhau trong vụ án.

Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do các bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo H đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh, giáo dục lao động xã hội huyện Phú Lương tuy nhiên đã không chịu cai nghiện, không chịu lao động, không chịu rèn luyện điều đã chứng tỏ các bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc để giáo dục các bị cáo và răn đe, Phòng ngừa chung.

Các bị cáo phạm tội Không nhằm mục đích thu lời bất chính và qua xác minh thấy rằng các bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về hình phạt và các vấn đề khác đối với các bị cáo của là phù hợp.

Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý các vật chứng sau:

Đi với vật chứng là 01 (một) bì niêm phong ký hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Lê Tuấn Anh cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Thái Nguyên; 01 (một) bì niêm phong ký hiệu H1 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Lê Tuấn Anh cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Thái Nguyên, cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với các vật chứng là: 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, số Imei: 1: 353700073501585; số Imei: 2: 353700073501593; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, số Imei 1: 863539042109515; số Imei 2: 863539042109507. Đây là những tài sản liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu đen, BKS 20E1-14194, hiện cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Phạm Thị V nên HĐXX cần ghi nhận.

- Về những vấn đề khác:

Áp dụng Điều 329 Bộ luật TTHS năm 2015 tiếp tục tạm giam các bị cáo Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước, theo quy định của pháp luật.

Thông báo cho các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định. Trong vụ án này có người bán ma túy cho bị cáo H và Đ là người phụ nữ nhưng không xác định được nhân thân lai lịch nên không có căn cứ xem xét xử lý.

Bởi các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm i khoản1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ.

Tuyên bố: Các bị cáo Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy"

Về hình phạt:

Xử phạt: Đỗ Viết H 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2019.

Ngô Văn Đ 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Áp dụng: Điều 329 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Quyết định tạm giam các bị cáo Đỗ Viết H và Ngô Văn Đ 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu H bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Lê Tuấn Anh cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Thái Nguyên; 01 (một) bì niêm phong ký hiệu H1 bên trong chứa vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành Trung, Lê Tuấn Anh cùng 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh Thái Nguyên.

Tch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, số Imei: 1: 353700073501585; số Imei: 2: 353700073501593; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, số Imei 1: 863539042109515; số Imei 2: 863539042109507. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý. (biên bản giao nhận vật chứng số 08 ngày 02/10/2019).

Ghi nhận việc bà Phạm Thị V đã nhận lại 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu đen, BKS 20E1- 14194.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ –UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST sung quỹ Nhà nước.

Quyền kháng cáo:

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 568/2019/HSST ngày 30/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:568/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về