Bản án 56/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ - TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 56/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện An Phú, đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 53/2020/HSST ngày 30/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 176/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Đ M N, sinh năm 1989, tại An Phú, An Giang, Nơi cư trú: ấp Tắc Trúc, xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Nghề nghiệp: Làm thuê, trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Phước (chết) và bà Âu Thị Phỉ, sinh năm 1951, Anh, chị, em ruột: Có 04 người, bị can là người nhỏ nhất, vợ Nguyễn Thị Gấm, sinh năm 1992, có 02 con chung, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2017. Nhân thân: từ nhỏ sống chung với gia đình, đi học đến lớp 9 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình. Sống bằng việc làm thuê cho đến ngày phạm pháp; Tiền án: chưa; tiền sự: chưa. Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 31/8/2020 cho đến nay.

- Người bị hại:

Hồ Thị Mỹ Châu, sinh năm 1975; Cư trú: ấp Tắc Trúc, xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là: Luật sư Dương Thị Đạt Thanh, sinh năm 1974 – Luật sư Văn phòng Luật sư Tiến Vinh, thuộc đoàn Luật sư tỉnh An Giang.

- Người làm chứng:

Âu Thị Phỉ; Cư trú: ấp Tắc Trúc, xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Nguyễn Văn Chiến; Cư trú: ấp Tắc Trúc, xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Nguyễn Hoàn Vũ; Cư trú: ấp Hà Bao 1, xã Đa Phướ, huyện An Phú, An Giang.

Tống Văn Tạo; Cư trú: ấp Phước Quản, xã Đa Phước, huyện An Phú, An Giang.

Trần Hồ Anh Thư; Cư trú: ấp Tắc Trúc, xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

- Người đại diện theo pháp luật cho Trần Hồ Anh Thư: Là ông Trần Hữu Liêm, sinh năm 1971; cư trú: ấp Tắc Trúc, xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do mâu thuẫn trong việc tranh chấp đất, nên khoảng 14 giờ 30 ngày 07/6/2020, khi bị cáo Đ M Nđang sửa chữa lại phần mái che trước nhà thì phát sinh tranh cãi với bà Hồ Thị Mỹ Châu. Trong lúc cự cãi,N lấy 01 cây búa (dài khoảng 40cm, cán bằng gỗ, đầu búa bằng kim loại) trước sân nhà cầm trên tay phải, còn bà Châu lấy 02 chai thủy tinh nhãn hiệu Number one cầm trên hai tay, để đánh nhau. Cùng lúc này, Nhật chạy đến đứng đối diện cách bà Châu khoảng 01m đánh nhau với bà Châu nhưng không trúng. Tiếp đó,N và bà Châu giằng co qua lại, thìN làm rớt cây búa xuống đường, rồi tiếp tục nhặt cây búa lên đánh nhiều cái chếch từ phải sang trái từ trên xuống trúng vào vùng đầu bà Châu gây thương tích, được mọi người can ngăn, thìN mang búa đi vào nhà, còn bà Châu được mọi người đưa đi bệnh viện điều trị. Qua sự việc, bà Hồ Thị Mỹ Châu có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi của bị cáo Đ M N.

Theo Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 295/20/TgT ngày 28/7/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang, xác định:

Bà Hồ Thị Mỹ Châu, sinh năm: 1975. Địa chỉ: Ấp Tắc Trúc, xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo thái dương trái hình chữ L kích thước 2.5 x 0.2cm, bờ không thẳng, nham nhở. Sây sát đuôi mày trái không tồn tại. Nề tím mũi trái không tồn tại. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là:02% (hai phần trăm). Ngày 31/8/2020, Đ M Nbị khởi tố điều tra.

Vật chứng vụ án: 01 (một) cây búa rìu, cán bằng gỗ, dài 40cm, nặng 700gam, đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam: 10.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 51/CT-VKSAP ngày 29/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú đã truy tố Đ M Nvề tội “cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản cáo trạng truy tố. Qua phần xét hỏi bị cáoN đã thừa nhận hành vi dùng búa (dài khoảng 40cm, cán bằng gỗ, đầu búa bằng kim loại) gây thương tích cho bà Châu với tỷ lệ thương tật 2%. ViệcN gây thương tích cho bà Châu chỉ do tức giận vì bị bà Châu chửi mắng nên tấn công cho đỡ tức chứ không có mục đích nào khác.N tự nguyện giao nộp số tiền 10.000.000 đồng để khắc phục một phần thiệt hại cho bà Châu.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa phát biểu lời luận tội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đề nghị áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 134; Điều 65. Xử phạt bị cáo Đ M Nvới mức án từ 6 tháng đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 30 Bộ luật hình sự tách ra giải quyết thành vụ án khác.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị hại: thống nhất về tội danh truy tố với Viện kiểm sát, về hình phạt thì đềnghị xử phạt bị cáo hình phạt tù giam, về bồi thường thiệt hại thì đề nghị buộc bị cáo bồi thường theo quy định pháp luật.

Bị cáo không tự bào chữa cho hành vi của mình.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Phú, tỉnh An Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra; phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đầy đủ căn cứ xác định: Đ M Nđã có hành vi cố ý gây thương tích cho bà Châu bằng việc dùng búa đánh nhiều cái chếch từ phải sang trái từ trên xuống trúng vào vùng đầu bà Châu gây thương tích với tỷ lệ thương tật 02%, mục đích chỉ hù dọa.

Lời khai của người bị hại: Bà Hồ Thị Mỹ Châu trình bày phù hợp với nội dung vụ án. Qua sự việc, do bà không đồng ý với việc cho bị cáo cất máy tre lấn qua trụ ranh nhà bà nên xãy ra cự cãi nhau, bà bị bị cáo tấn công và yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi của bị cáo và yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 129.205.259 đồng.

Lời khai của những người làm chứng: Các ông, bà Âu Thị Phỉ, Nguyễn Văn Chiến, Trần Hồ Anh Thư, Nguyễn Hoàn Vũ, Tống Văn Tạo trình bày phù hợp với nội dung vụ án.

[3] Về tội danh:

Căn cứ pháp luật, hành vi của bị cáo Đ M Nđã phạm tội “cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú truy tố bị cáo về tội danh, điều luật (đã viện dẫn) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt:

Bị cáo đứng trước phiên tòa hôm nay là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo ý thức được việc gây thương tích cho ngưởi khác là hành vi vi phạm pháp luật, sức khỏe con người là quan trọng được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáoN dùng búa, ban đầu hù dọa, sau đó do cự cãi nhau nên bị cáo đã đánh nhiều cái chếch từ phải sang trái từ trên xuống trúng vào vùng đầu bà Châu gây thương tích với tỷ lệ thương tật 02% là hành vi nguy hiểm xã hội, trực tiếp xâm phạm sức khỏe của người khác, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Đáng lẽ bị cáo cần bình tĩnh hơn trong lúc tức giận để tránh gây ra hậu quả đáng tiếc, đứng trước phiên tòa hôm nay bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo thể hiện bản chất côn đồ và xem thường pháp luật, hậu quả xảy ra do hành vi của bị cáo đối với bị hại đã đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích được quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 có khung hình phạt đến 3 năm tù.

Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật hình sự, bị cáo dung búa là hung khí nguy hiểm có thể dẫn đến thương tích chết người bất cứ lúc nào, mặc dù thương tích của bị hại là không lớn nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc để đưa ra bản án nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội sau này.

[5] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo:

Bị cáoN có nhân thân tốt, từ nhỏ sống chung với gia đình, đi học đến lớp 9 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình. Sống bằng việc làm thuê cho đến ngày phạm pháp, mới phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, ở giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn, hối cải, bị cáo đã khắc phục một phần thiệt hại là 10.000.000 đồng. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Về bồi thường thiệt hại:

Không đồng ý theo đề nghị của Viện kiểm sát về việc tách yêu cầu bồi thường thiệt hại ra giải quyết thành vụ án khác.

Bị hại yêu cầu bồi thường số tiền 129.205.259 đồng cụ thể như sau: Tiền chi phí điều trị đợt 1: 13.177.000 đồng Thiệt hại tổn thất tinh thần = 1.400.000 đồng/ tháng x 30 tháng = 42.000.000 đồng.

Thiệt hại lao động người chăm sóc: 3.600.000 đồng.

Thiệt hại nghỉ dưỡng bệnh: 400.000 x 78 ngày = 31.200.000 đồng. Tổng cộng đợt 1: 89.977.000 đồng.

Tiền thuốc đợt 2: 8.828.259 đồng Tiền mất thu nhập: 26/6/2020 - 09/9/2020 là 76 ngày x 400.000 đồng/ ngày = 30.400.000 đồng.

Tổng cộng đợt 2: 39.228.259 đồng.

Qua xem xét các hóa đơn chứng từ của bị hại giao nộp:

Tòa án căn cứ Nghị định 90/2019/NĐ-CP ngày 01/01/2020 mức lương tối thiểu vùng của huyện An Phú là 3.070.000 đồng/ tháng = 103.000 đồng/ ngày để làm căn cứ tính mất thu nhập.

Căn cứ khoản 2 Điều 592 BLDS 2015 thì mức bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏa bị xâm phạm là không quá 50 lần mức lương tối thiểu. Lương tối thiếu 1.490.000 đồng/ tháng.

Xét chấp nhận các chi phí như sau:

Chấp nhận chi phí điều trị nằm viện có hóa đơnvà phiếu thu của hai đợt là 13.555.247 đồng nên chỉ chấp nhận số tiền này.

Chấp nhận chi phí nằm viện và 01 người nuôi bệnh như sau: 18 ngày x 2 người x 103.000 đồng = 3.708.000 đồng Chấp nhận chi phí tổn thất tinh thần của bà Châu là 6 tháng = 8.940.000 đồng.

Tổng cộng: 26.203.247 đồng.

Các yêu cầu khác không có căn cứ chấp nhận.

[7] Từ những nhận định như trên và xem xét nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy Viện kiểm sát đề nghị mức án từ 6 tháng đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[8] Về vật chứng cần xử lý:

Tịch thi tiêu hủy 01 (một) cây búa rìu, cán bằng gỗ, dài 40cm, nặng 700gam, đã qua sử dụng;

Tiền Việt Nam: 10.000.000 đồng sẽ trả cho bị hại.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự 2015;

Căn cứ Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật dân sự 2015; Căn cứ điểm a, khoản 2 Điều 482 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đ M Nphạm tội “Cố ý gây thương tích”. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Đ M N9 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng được tính kể từ ngày tuyên án ngày 26/11/2020.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Nhơn Hội, huyện An Phú, tỉnh An Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1, Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015.

Về vật chứng: Tịch thi tiêu hủy 01 (một) cây búa rìu, cán bằng gỗ, dài 40cm, nặng 700 gam, đã qua sử dụng;

(Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện An Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú).

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại số tiền 26.203.247 đồng (Hai mươi sáu triệu, hai trăm lẻ ba nghìn, hai trăm bốn mươi bảy đồng). Do bị cáo đã nộp khắc phục số tiền 10.000.000 đồng, nên buộc bị cáo phải trả thêm cho bị hại số tiền 16.203.247 đồng ( mười sáu triệu, hai trăm lẻ ba nghìn, hai trăm bốn mươi bảy đồng ).

Bị hại liên hệ Chi cục thi hành án dân sự huyện An Phú nhận ngay 10.000.000 đồng tiền khắc phục hậu quả, theo biên lai thu tiền số AA/2017 ngày 30/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện An Phú.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Về án phí:

Buộc bị cáo Đ M Nphải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Đ M Nphải chịu 810.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, (phần đã nộp khắc phục trước không phải chịu án phí) Thời hạn kháng cáo của bị cáo, của đương sự có mặt hoặc đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/11/2020). Đối với đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:56/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về