Bản án 56/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 56/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2020/TLST-HS ngày 31/8/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2020/QĐXXST-HS ngày 10/9/2020 đối với bị cáo:

QUAN VĂN C, tên gọi khác: Không, sinh ngày 20/6/1974 tại huyện C, tỉnh T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã LB, huyện CĐ, tỉnh B; chỗ ở: Thôn B, xã LB, huyện CĐ, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân Tộc: Tày; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Quan Văn H (đã chết) và bà Ma Thị G; vợ Ma Thị C1 và có 01 con, sinh năm 1995;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 14/7/2020 C một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 97 F9-3608 từ nhà đi huyện Đ, tỉnh T mục đích tìm mua Heroine để sử dụng cho bản thân (xe mô tô của Ma Thị C1 là vợ của C), khi đến khu vực ngã tư Chợ C, huyện Đ, tỉnh T, C gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ nhìn giống người nghiện ma túy đang đứng một mình ở cạnh đường, hỏi và mua được 01 gói Heroine có đặc điểm bên ngoài gói bằng nilon màu trắng một mặt dán bằng giấy trắng, bên trong có 01 gói nhỏ được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, có chữ nhiều màu với giá 300.000 đồng mua được Heroine, C điều khiển xe đi về tìm chỗ vắng người lấy gói Heroine ra san một ít sử dụng bằng cách tiêm chích vào cơ thể, số còn lại gói lại như cũ cất cất vào túi áo đang mặc rồi điều khiển xe về nhà. Sáng ngày 15/7/2020, C điều khiển xe mô tô mang theo gói Heroine đi xã L, huyện C, tỉnh T chơi. Khoảng 06 giờ 30 phút cùng ngày khi đến thôn N, xã L, huyện C, tỉnh T thì bị tổ Công tác Công an huyện C đang làm nhiệm vụ phát hiện C đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 97 F9- 3608 nghi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe và mời về Ủy ban nhân dân xã L, huyện C để làm việc, tại đây C đã tự nguyện giao nộp 01 gói nhỏ có đặc điểm bên ngoài gói bằng nilon màu trắng một mặt dán bằng giấy trắng, bên trong có 01 gói nhỏ được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, có chữ nhiều màu, trong cùng chứa chất bột vón cục màu trắng ngà, C khai là Heroine nhằm mục đích để sử dụng.

Tại biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy hồi 11 giờ 20 phút ngày 15/7/2020 tại Công an huyện C đối với Quan Văn C, kết quả: (+) Dương tính.

Tại kết luận giám định số 571/GĐKTHS ngày 18/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà có trong 01 gói nhỏ thu giữ của Quan Văn C là Heroine, có khối lượng là 0,444g (không phảy bốn trăm bốn mươi bốn gam).

Cáo trạng số: 57/CT-VKSCH ngày 28/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Quan Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Quan Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Quan Văn C từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 15/7/2020.

Về hình phạt bổ sung phạt tiền: Bị cáo phạm tội không có mục đích vụ lợi, bị cáo không có tài sản riêng, điều kiện kinh tế khó khăn nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Quan Văn C, được niêm phong chữ ký xác nhận và có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

Đi với người đàn ông bán Heroine cho Quan Văn C quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Quan Văn C Công an huyện C đã xử phạt vi phạm hành chính, nên không đề nghị xem xét.

Đi với Ma Thị C1 là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 97 F9-3608, khi C mượn xe C1 không biết C sử dụng vào mục đích phạm tội nên không đề nghị xem xét.

Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ti phiên tòa bị cáo Quan Văn C đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 15/7/2020, tại thôn N, xã L, huyện C, tỉnh T, Quan Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine, khối lượng 0,444g (không phẩy bốn trăm bốn mươi bốn gam), mục đích để sử dụng, khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ trái phép trong phạm vi khối lượng ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (từ 0,1 gam đến 05 gam). Đủ cơ sở xác định bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Ma Túy là chất gây nghiện, có tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội, sa sút về kinh tế, gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình..., nhưng bị cáo đã đi ngược lại quy định Nhà nước, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vi phạm pháp luật, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải", "Sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn " theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm chung; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cho thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng mức án tương xứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời làm gương phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo Quan Văn C xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Quan Văn C, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Quan Văn C, Công an huyện C, tỉnh T đã ra Quyết định xử phạt hành chính nên không xem xét xử lý. Đối với Ma Thị C1 là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 97 F9-3608, khi C mượn xe C1 không biết, nên không có căn cứ xử lý.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị, sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo. Không thực hiện tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc cấm hành nghề làm công việc nhất định đối với bị cáo.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Quan Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Quan Văn C, 01 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 15/7/2020.

Tch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Quan Văn C. Vật chứng là 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt sau các mép dán có chữ ký xác nhận của Quan Văn C, thành phần tham gia và 05 (năm) hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi tang vật vụ Quan Văn C, giám định ngày 16/7/2020.Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa.

Quan Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 24/9/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về