Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 01/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 56/2020/HNGĐ-ST NGÀY 01/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 01 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 190/2020/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Kim H, sinh năm 1988; địa chỉ: Số 317, ấp LH, xã LH, huyện LV, tỉnh ĐT. (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Lê Minh M, sinh năm 1981; địa chỉ: Số 266B, ấp HT, xã VT, huyện LV, tỉnh ĐT. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, chị H là nguyên đơn trình bày:

Chị H và anh M có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn năm 2007. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là anh M thường xuyên ghen tuông, ý kiến không hợp nhau, chị H đi làm thì anh M không có việc làm nên đi theo canh chừng, sợ chị H đi với đàn ông khác, anh M còn liên hệ với các số điện thoại của đồng nghiệp mà chị H lưu trong danh bạ để nặng nhẹ, có lần đập điện thoại của chị H, nên vợ chồng thường xuyên cự cãi, anh M còn đến nhà mẹ ruột chị H cự cãi, chị H đã bỏ nhà sống riêng từ cuối năm 2019 đến nay. Nay chị H xin ly hôn với anh M.

Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên Lê Thị Huyền Trân, sinh ngày 26/01/2008 và Lê Nguyễn Minh Quang, sinh ngày 13/11/2012, hiện do chị H nuôi dưỡng. Chị H yêu cầu tiếp tục nuôi con, yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về chia tài sản, nợ chung không yêu cầu giải quyết.

bày:

- Trong biên bản hòa giải của Tòa án và tại phiên tòa, anh M là bị đơn trình Thống nhất theo lời trình bày của chị H về thời gian kết hôn, thời gian ly thân, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, nhưng vì anh M thương vợ, thấy chị H đi làm ca đêm, anh M đang thất nghiệp nên đưa đón vợ. Tuy nhiên, mỗi ngày đi làm chị H đều có nghĩ giữa ca để ăn, ngày nào anh M cũng gọi cho chị H, nhưng có lúc chị H không nghe máy, có lúc nghe máy thì anh M thấy đầu dâu bên kia như có tiếng của đàn ông nên anh M có ghen, nên ngày nào cũng gọi. Anh M có liên lạc với một số đồng nghiệp của chị H vì nghi ngờ họ có mối quan hệ quá thân thiết với chị H nên anh M ghen. Anh M không bắt được việc chị H có mối quan hệ tình cảm với người khác, nhưng anh M nghi ngờ. Anh M trong lúc giận có đè chị H giật điện thoại đập, chứ không phải muốn đánh chị H. Lúc đó anh M có cự cãi lớn tiếng bên nhà vợ. Khi chị H bỏ đi, anh M có đăng lên mạng xã hội hình ảnh của chị H và anh M, mục đích là để mọi người biết chị H đã có chồng để không ai tán tỉnh làm quen. Nay anh M biết minh sai, hứa sẽ thay đổi. Nay anh M không đồng ý ly hôn, muốn được đoàn tụ.

Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên Lê Thị Huyền Trân, sinh ngày 26/01/2008 và Lê Nguyễn Minh Quang, sinh ngày 13/11/2012, hiện do chị H nuôi dưỡng. Anh M đồng ý để chị H tiếp tục nuôi con, nhưng anh M không cấp dưỡng. Nếu chị H không nuôi con được thì giao cho anh M nuôi.

Về chia tài sản, nợ chung không yêu cầu giải quyết.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H. Con chung giao cho chị H nuôi dưỡng, buộc anh M cấp dưỡng nuôi con theo quy định, tài sản, nợ chung không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh M đang sinh sống tại huyện Lấp Vò nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 28; Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Chị H và anh M chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên hôn nhân giữa chị H và anh M là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Tuy nhiên, quá trình chung sống vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, anh M không tìm hiểu kỹ mà thường xuyên ghen tuông vô cớ, đập phá tài sản, giám sát chặt chẽ đời sống riêng tư của chị H. Dù là vợ chồng nhưng phải có khoảng không gian riêng tư, tôn trọng danh dự nhân phẩm của nhau, tin tưởng nhau thì hôn nhân mới bền vững, hạnh phúc. Anh M không có chứng cứ gì rõ ràng mà cho rằng chị H không chung thủy, làm cho đời sống vợ chồng xảy ra xung đột, mâu thuẫn kéo dài mà không thể hàn gắn, khắc phục được. Dẫn đến chị H mang theo hai con bỏ nhà ra ở riêng từ tháng 12/2019 đến nay. Trong thời gian này anh M cũng không tìm gặp được chị H để hàn gắn.

Thời gian qua, Tòa án cũng đã tạo điều kiện để chị H và anh M hóa giải mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng, cùng nhau lo cho con chung. Nhưng mỗi lần gặp là chị H, anh M lại cãi nhau, chị H cương quyết xin ly hôn, mà anh M thì không có biện pháp gì để hàn gắn, thuyết phục được chị H.

Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tình nghĩa vợ chồng:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.” Tại Điều 21của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng:

“Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.” Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên 1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy hôn nhân giữa chị H và anh M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ. Đề nghị của Kiểm sát viên cho ly hôn là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử.

[2.2] Về nuôi con chung:

Có 02 con chung tên Lê Thị Huyền Trân, sinh ngày 26/01/2008 và Lê Nguyễn Minh Quang, sinh ngày 13/11/2012, hiện do chị H nuôi dưỡng. Anh M đồng ý để chị H tiếp tục nuôi con, anh M không cấp dưỡng.

Xét thấy con chung từ khi chị H và anh M xa nhau đến nay do chị H nuôi dưỡng, hai bé vẫn khỏe mạnh. Chị H và anh M thống nhất để chị H nuôi 02 con. Chị H yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con nhưng anh M không đồng ý cấp dưỡng.

Tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

“1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.” Xét điều luật trên, anh M không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Chị H yêu cầu mức cấp dưỡng theo quy định của pháp luật là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.3] Về chia tài sản: Chị H và anh M không yêu cầu nên không xem xét.

[2.4]. Về nợ chung: Chị H và anh M không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về án phí: Chị H xin ly hôn nên phải nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Anh M bị buộc nghĩa vụ cấp dưỡng nên phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 19, 21, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Kim H. Chị Nguyễn Kim H được ly hôn với anh Lê Minh M.

2. Về nuôi con chung:

Chị Nguyễn Kim H được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con tên Lê Thị Huyền Trân, sinh ngày 26/01/2008 và Lê Nguyễn Minh Quang, sinh ngày 13/11/2012, hiện do chị H nuôi dưỡng.

Anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con, trong đó một con mỗi tháng là ½ mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, tương ứng từng thời điểm thi hành án. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 9/2020 đến khi Huyền Trân, Minh Quang đủ 18 tuổi.

Anh M được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Chị H và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh M thực hiện quyền này.

3. Về chia tài sản: Không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.

5. Về án phí:

Chị Nguyễn Kim H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BH/2018/0009362 ngày 20 tháng 4 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

Án phí về cấp dưỡng nuôi con: Anh Lê Minh M phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí về cấp dưỡng nuôi con.

6. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2020/HNGĐ-ST ngày 01/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:56/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về