Bản án 56/2019/HS-ST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 56/2019/HS-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2019/TLST-HS ngày 29/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2019/QĐXXST-HS ngày 08/4/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phùng Văn T; giới tính: Nam; sinh năm 1989; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm V, xã B, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Phùng Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị S; Vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 73/2014/HSST ngày 01/8/2014;bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2018; có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người chứng kiến:

1. Anh Dương Văn Đ, sinh năm 1963(Vắng mặt) Địa chỉ: xóm V, xã B, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

2. Anh Dương Văn Đ1, sinh năm 1983 (Vắng mặt) Địa chỉ: xóm N, xã X, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ 30 phút ngày 31/12/2018, tổ công tác của Công an huyện Phú Bình phối hợp với Công an xã X, huyện Phú Bình làm nhiệm vụ tại khu vực xóm K, xã X, huyện Phú Bình thì phát hiện bắt quả tang Phùng Văn T, sinh năm 1989 trú tại: xóm V, xã B, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra đối tượng đã tự giác giao nộp 01 gói giấy vở học sinh màu trắng tại túi quần dài bên phải phía trước và 01 gói giấy bạc màu vàng tại túi quần dài phía sau bên phải. Bên trong 02 gói giấy có chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là ma túy loại Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại Bản kết luận giám định số 231/KL-PC09 ngày 07/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Phùng Văn T là chất ma túy, loại Heroine, có tổng trọng lượng 0,2 gam.

Tại Cơ quan điều tra Phùng Văn T khai: T là đối tượng nghiện ma túy, nên khoảng 17 giờ 20 phút ngày 31/12/2018, T một mình đi lên khu vực xã Nh, huyện Phú Bình với mục đích để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp một người đàn ông tên L, bị cáo không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể và mua 01 gói ma túy của người đàn ông này với giá 100.000đ. Bị cáo cho vào túi quần dài bên phải phía trước đang mặc và đi về đến đoạn đường QL37 thuộc địa phận xóm K, xã X thì bị tổ công tác của Công an huyện Phú Bình và Công an xã X kiểm tra bắt giữ, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Ti phiên tòa bị cáo Phùng Văn T khai nhận rõ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Tại bản cáo trạng số 53/CT-VKSPB ngày 29/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình truy tố Phùng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa trong phần luận tội Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình giữ nguyên bản cáo trạng số 53/CT-VKSPB ngày 29/3/2019, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: xử phạt Phùng Văn T từ 3 đến 4 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bi cáo; Về vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy còn lại sau giám định. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu được, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 17h40 phút ngày 31/12/2018, tại khu vực đường QL37 thuộc địa phận xóm K, xã X, bị cáo T đã có hành vi tàng trữ 0,2gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 53/CT-VKSPB, ngày 29/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình truy tố Phùng Văn T theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, không những ảnh hưởng đến chính sức khỏe của bị cáo mà còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình.

Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2014 đã bị xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo không lấy đó làm bài học, để sửa chữa thành công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục có hành phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải có mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa thấy: Bị cáo T không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Xét thấy đề nghị về mức hình phạt của Kiểm sát viên có phần nghiêm khắc. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

- Về hình phạt bổ sung: bị cáo là người nghiện ma túy, qua xác minh lời khai tại phiên tòa không có tài sản, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về biện pháp ngăn chặn: Cần áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Quyết định tạm giam bị cáo Phùng Văn T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[6] Về vật chứng: cần tịch thu, tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Các vấn đề khác: Trong vụ án này còn có người đàn ông bị cáo khai tên L đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực xã Nh. Do bị cáo T không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ cụ thể, đồng thời Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh lai lịch của người đàn ông này nhưng xác định không có người tên L trên địa bàn xã Nh, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để mở rộng điều tra vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Phùng Văn T 2 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 31/12/2018.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

3. Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Phùng Văn T 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong có chứa 0,184gam Heroine được hoàn lại sau giám định.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/5/2019 giữa Công an huyện Phú Bình và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Bình)

5.Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí; buộc bi cao Phùng Văn T phải nôp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HS-ST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về