Bản án 56/2019/HSST ngày 23/04/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 56/2019/HSST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T, xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 27/2019/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Khắc N; sinh năm: 1981, tại: Thành phố H; thường trú: 110/50 đường Ông Ích K, Phường N, Quận M, Thành phố H; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 08/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1935 và bà: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1944; vợ, con: chưa có; nhân thân: Ngày 21/6/2002 bị Ủy ban nhân dân Thành phố H đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời gian 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; năm 2012 bị Ủy ban nhân dân Quận T, Thành phố H áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện với thời gian 24 tháng; ngày 27/01/2010 bị Tòa án nhân dân quận Tân B xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 18/02/2012; tiền sự: không; tiền án: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày: 20/9/2018 – Có mặt Bị hại: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1964; trú tại: 19/7 đường Lạc Long Q, Phường M, quận Tân B, Thành phố H – Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ ngày 20/9/2018, Nguyễn Khắc N đến trung tâm y tế dự phòng Quận 11 để uống thuốc Methadone và lãnh thuốc điều trị HIV thì gặp đối tượng tên Tuấn (chưa rõ lai lịch). Tuấn rủ N đi cướp giật tài sản thì N đồng ý. Sau đó, Tuấn điều khiển xe gắn máy hiệu Darem màu nâu (chưa rõ biển số) chở N đi qua nhiều tuyến đường để tìm tài sản cướp giật.

Khoảng 11 giờ cùng ngày, khi lưu thông trên đường Dương K (hướng ra đường Lũy Bán B), Tuấn và N phát hiện chị Nguyễn Thị B đang dừng xe gắn máy trước số 50 Dương K, phường H, quận T, trên tay đang cầm điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 sử dụng nên Tuấn điều khiển xe quay lại áp sát từ phía sau bên trái của chị B để N dùng tay phải giật được điện thoại di động rồi tăng ga bỏ chạy. Lúc này Đội tuần tra Cảnh sát hình sự Công an Thành phố H cùng người dân chứng kiến sự việc nên đuổi theo. Khi đến trước số 52/54 Huỳnh Thiện L, phường H thì Tuấn và N va chạm với xe ba bánh nên N nhảy xuống xe bỏ chạy bộ đến trước số 70/28 Huỳnh Thiện L thì bị ngã và làm rơi chiếc điện thoại di động vừa cướp giật được. N tiếp tục bỏ chạy đến trước số 118/16/40 Huỳnh Thiện L thì bị bắt giữ quả tang. Riêng Tuấn đã điều khiển xe chạy thoát.

Theo kết luận định giá số 309/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 28/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận T: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu đen, số imei 35323607826887001, trị giá 2.200.000 đồng.

Theo lời khai ban đầu N không thừa nhận việc cùng Tuấn cướp giật điện thoại di động của chị B, nhưng tại Biên bản hỏi cung ngày 26/9/2018 thì N thừa nhận được Tuấn rủ đi cướp giật và chính N là người trực tiếp giật điện thoại di động của chị B. Sau đó, N lại thay đổi lời khai và cho rằng khi N và Tuấn thấy chị B đang dừng xe trước số 50 Dương K sử dụng điện thoại di động, Tuấn vòng xe lại áp sát vào bên trái chị B và dùng tay phải giật được điện thoại, Tuấn đưa điện thoại vừa giật được cho N giữ rồi điều khiển xe bỏ chạy. Tuy nhiên căn cứ vào lời khai của bị hại, nhân chứng chứng kiến sự việc, hình ảnh camera thu thập được cùng vật chứng thu giữ có đủ căn cứ xác định N chính là người đã giật điện thoại di động của chị B.

Vật chứng thu giữ :

- 01 ĐTDĐ hiệu Samsung Galaxy J7 màu đen, số imei 35323607826887001, đã trả cho chị Nguyễn Thị B.

- 01 áo sơ mi sọc ca rô đỏ xanh tay dài, 01 quần sọt màu xám, N mặc khi gây án.

- 01 đĩa DVD hiệu Maxell và 01 USB lưu trữ dữ liệu trích xuất từ camera ghi lại hình ảnh lúc Tuấn chở N giật điện thoại, hiện đang lưu hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKSTP ngày 21 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận T đã truy tố bị cáo Nguyễn Khắc N về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận T giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc N từ 04 (Bốn) năm đến 05 (Năm) năm tù.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề cập xử lý phần trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng.

- Bị cáo Nguyễn Khắc N đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:

Khong 11 giờ 00 phút ngày 20/9/2018, bị cáo Nguyễn Khắc N gặp đối tượng tên Tuấn (Không rõ lai lịch) tại tại Trung tâm y tế dự phòng Quận 11 để uống Methadone và lãnh thuốc điều trị HIV. Tuấn rủ N về nhà Tuấn chơi, trên đường đi Tuấn rủ N cướp giật tài sản bán chia nhau tiêu xài thì N đồng ý. Tuấn điều khiển xe gắn máy hiệu Dream màu nâu (không rõ biển số) chở N đi qua nhiều tuyến đường để tìm tài sản sơ hở để cướp giật. Khi đến trước nhà số 50 đường Dương K, phường H, quận T thì Tuấn và N phát hiện chị Nguyễn Thị B đang dừng xe sử dụng điện thoại di động nên Tuấn điều khiển xe quay lại áp sát từ phía sau bên trái của chị B để N dùng hai tay giật điện thoại di động rồi tăng ga bỏ chạy thì bị Đội tuần tra cảnh sát hình sự Công an Thành phố H cùng người dân truy bắt được N, riêng đối tượng Tuấn điều khiển xe tẩu thoát.

Vì vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Khắc N phạm tội “Cướp giật tài sản”, như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo cùng đồng bọn sử dụng xe gắn máy công khai, chiếm đoạt điện thoại di động của người bị hại và nhanh chóng tẩu thoát, do bị cáo và đối tượng tên Tuấn sử dụng xe gắn máy làm phương tiện cướp giật là thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm nên Viện kiểm sát nhân dân quận T truy tố bị cáo Nguyễn Khắc N theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách táo bạo và liều lĩnh, ngay trên đường phố có đông người qua lại, chứng tỏ ý thức xem thường pháp luật của bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 21/6/2002 bị Ủy ban nhân dân Thành phố H đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời gian 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; năm 2012 bị Ủy ban nhân dân Quận T, Thành phố H áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện với thời gian 24 tháng; ngày 27/01/2010 bị Tòa án nhân dân quận Tân B xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 18/02/2012, đây là tình tiết cần xem xét khi lượng hình.

[5] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Sam sung J7 màu đen đã thu hồi trả cho người bị hại, bà Nguyễn Thị B đã nhận lại và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 ĐTDĐ hiệu Samsung Galaxy J7 màu đen, số imei 35323607826887001, đã trả cho chị Nguyễn Thị B nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

- 01 áo sơ mi sọc ca rô đỏ xanh tay dài, 01 quần sọt màu xám, N mặc khi gây án, tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy theo qui định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 đĩa DVD hiệu Maxell và 01 USB lưu trữ dữ liệu trích xuất từ camera ghi lại hình ảnh lúc Tuấn chở N giật điện thoại, là chứng cứ của vụ án nên tiếp tục lưu hồ sơ.

Đi với tên Tuấn, chưa xác định được nhân thân lai lịch nên không có cơ sở xử lý, khi nào điều tra làm rõ sẽ xử lý sau.

[8] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm d Khoản 2 Điều 171; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khắc N phạm tội "Cướp giật tài sản".

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc N 04 (Bốn) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 20 tháng 9 năm 2018. [3] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tich thu tiêu hủy 01 (Một) bộ quần áo gồm: áo sơ mi tay dài, sọc caro màu đỏ xanh; quần short màu xám.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 293/PNK ngày 25/9/2018 của Công an quận T)

[5] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Khắc N nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân thành phố H. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HSST ngày 23/04/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:56/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về